ĐẠI NAM LIỆT TRUYỆN - TẬP 4 - Trang 226

Phan Thúc Trực

Phan Thúc Trực người Yên Thành, Nghệ An, tổ bốn năm đời đều đỗ hương
cống triều Lê, cha là Vũ gặp lúc Lê Mạt, ẩn dật học tập. Rồi đầu niên hiệu
Gia Long, nhiều lần lên trường quây trướng dạy học, kinh sử thường ngày
từng đọc thuộc lòng, người ta đều tôn là bậc học rộng. Thúc Trực ở nhà học
cha, thông minh, xem rộng, nổi tiếng hay chữ. Hồi lâu đi thi hương luôn bị
quan trường đánh hỏng. Trực bèn lấy chân tú tài sung cống sinh vào học
trường Quốc Tử Giám. Thiệu Trị năm thứ 7 (1847) đỗ nhất giáp tiến sĩ cập
đệ đệ tam danh, được bổ Hàn lâm viện trước tác. Tự Đức năm đầu (1848)
được vào Nội các, rồi thăng Tập hiền viện thị độc sung Kinh diên khởi cư
chú. Vâng mệnh làm thơ văn, luôn được vua khen ngợi … Năm thứ 4
(1851), vâng chiếu đi Bắc Kỳ tìm kiếm sách vở xưa còn lại. Năm sau về tới
Thanh Hóa thì ốm chết, được truy thụ Thị giảng học sĩ.

Trước đó, chỗ ấp Thúc Trực ở có dải sông Câm Giang, hàng năm nước lụt,
làm cho nhiều đồng ruộng bị lầy đọng, cỏ rả, không cày cấy được. Thúc
Trực, sau khi đỗ về, giúp dân đào cừ, đắp đập. Từ đó chứa nước, tháo nước
thuận tiện dân được nhờ. Sau khi ông mất, người trong ấp nhớ ơn, lập đền
thờ. Những sách trước tác ra có: "Diễn châu phỉ chí", "Cẩm Đình hiệu đầm
thi tập", "Bắc hành nhật lan phả thi tập”. Trước tên là Dưỡng Hạo, sau lấy
tên tự là Hành Quý. Con là Vĩnh, đỗ cử nhân; Định, tú tài.

Trịnh Lý Hanh

(Phụ: Vũ Văn Lý, Trần Vỹ, Nguyễn Hữu Tạo,

Hoàng Đình Chuyên, Hoàng Đình Tá).

Trịnh Lý Hanh người Thanh Trì, Hà Nội. Thiệu Trị năm thứ 7 (1847) đỗ
tiến sĩ, đã được bổ Tri phủ Thái Bình. Tự Đức năm đầu (1848), bổ vào Tập
hiền viện sung Kinh diên khởi cư chú, phụng sắc cùng làm bài phú vịnh sử.
Từng nghe tin bố mẹ ốm, xin về, được vua ban cho sâm quế thuốc men;

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.