ĐẠI NAM LIỆT TRUYỆN - TẬP 4 - Trang 227

đến khi có tang, lại ban cho tiền để lo việc tang ma. Năm thứ 11 (1858) bổ
án sát sứ Nam Định rồi chuyển vào Quang Lộc tự khanh biện lý Hộ bộ.
Gặp lúc Bắc kỳ, Thổ khấu nổi lên, được phái đi hội biện quân vụ. Năm thứ
16 (1863), vào làm Hữu thị lang Hộ bộ, rồi lên thự Hữu tham tri. Năm thứ
18 (1865) thăng Lạng Bình tuần phủ, rồi ốm chết tại chức. Con là Tiên
Sách, Đình Kỷ, đều do chân cử nhân ra làm quan.

Lý Hanh, trước tên là Đình Thái, sau đổi ra tên này. Những người cùng một
địa phương với Lý Hanh đỗ đạt kẻ trước người sau cùng một thời bấy giờ
là:

Vũ Văn Lý, người Nang Xang, đỗ đồng tiến sĩ, Thiệu Trị năm đầu (1841)
làm chức Tế tửu.

Trần Vỹ, Nguyễn Hữu Tạo, người Từ Liêm, đều đỗ khoảng năm Thiệu Trị:
Vỹ, do chức thị giảng đi t Đốc học Hà Nội, Tạo thăng mãi đến Bố chính sứ
Sơn Tây.

Hoàng Đình Chuyên và em là Đinh Tá, người Thanh Trì. Đình Chuyên đỗ
tiến sĩ Tự Đức năm thứ 2 (1849), làm đến án sát tới bị giáng chức đổi đi
lĩnh Đốc học Ninh Bình. Đình Tá, tiến sĩ Thiệu Trị năm thứ 2 (1842) cuối
cùng làm đến Tri phủ Nghĩa Hưng.

Trịnh Xuân Thưởng

Tự là Đôn Mậu, người Đông Ngàn, Bắc Ninh (Nay thuộc Đông Anh ngoại
thành Hà Nội). Đỗ tiến sĩ Thiệu Trị năm thứ 7 (1847), khi dâng biểu tạ ơn,
vua bảo quan Nội các rằng: "Trịnh Xuân Thưởng, dáng mạo đoan trang,
thực xứng sự ước mong của trẫm”. Tự Đức năm thứ 2 (1849) , do chân Hàn
lâm biên tu bổ đi Tri phủ Hàm Thuận, chưa kịp khởi hành, thời vì có đình
cử, đổi bổ làm Thị giảng sung Sử quán biên tu. Năm thứ 5 (1852), bổ đi
Đốc học Quảng Nam thì bị giáng luôn xuống đến 4 cấp lìa khỏi chức, Năm

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.