ĐẠI NAM LIỆT TRUYỆN - TẬP 4 - Trang 328

Lại người cùng quê là Ngô Sỹ Thường. Thiệu Trị năm thứ 2 (1842) quyền
lĩnh Phó vệ úy sung giản bổ Phân vũ vệ ngũ đội đội trưởng, thăng dần lên
Chánh đội trưởng. Tự Đức năm thứ 15 (1862) phái đi quân thứ tỉnh Bắc,
đánh nhau với giặc ở Trường Giang, bị chết, được truy tặng Tinh binh cai
đội.

Nguyễn Đức Chung

Người Hương Trà, Thừa Thiên. Cha là Đức Huyên làm Thái y viện phó.
Đức Chung lúc nhỏ đi du học, đến năm Gia Long thứ 15 (1816) đầu quân
vào Tiền phong dinh. Khoảng năm Minh Mạng làm quan chức cai đội, rồi
thăng mãi đến Vệ uý. Thiệu Trị năm thứ 5 (1845), bổ Lãnh binh quan An
Giang. Đến năm thứ 7 (1847), cửa Đà Nẵng báo cấp chuyển đi bắt giặc rồi
chết trận, năm ấy 60 tuổi. Được truy tặng Chưởng vệ, gia cấp tiền tuất và
liệt thờ vào Trung nghĩa từ. Con là Điển bổ chân ấm thụ thiên hộ qua làm
Đội trưởng suất đội.

Lê Văn Cư

(Phụ: Trần Văn Du, Phạm Văn Trứ)

Người Phong Đăng, Quảng Bình, là người khẳng khái có khí tiết. Trước
tòng quân có quân công thăng mãi đến Vũ lâm Tả dực nhất đội cai đội.
Minh Mạng năm thứ 16 (1835) nghịch Khôi giữ thành làm phản. Văn Cư
theo quân thứ Phiên An, mang quân đào đường ngầm để công thành bị giặc
bắt. Giặc Chẩm tra hỏi, nhất định không nói gì, chỉ bảo rằng: "Ta nhận quan
tước triều đình, nay bị bắt, có chết mà thôi". Giặc khen là nghĩa khí, không
nỡ giết. Sau đó lại ngầm mưu nội công, việc tiết lộ, giặc bèn giết đi. Khi
sắp bị chết, mắng giặc rằng: "Sau khi ta chết, một tụi nghịch tặc chúng bay
sớm muộn cũng sẽ châu đầu chịu giết thôi". Sau các tướng dò xét được tình
hình đem việc tâu lên. Vua nói: "Văn Cư giữ tiết tháo không chịu khuất,
mắng giặc mà chết, trung liệt đáng ghi." Rồi cho truy tặng Phó vệ úy, cấp
tiền tuất.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.