ĐẠI NAM LIỆT TRUYỆN - TẬP 4 - Trang 357

phỉ người Thanh quấy nhiễu Tuyên Quang, đổi sung Tuyên (Quang quân)
thứ. Trận đánh ở An Thịnh. Uy dẫn đầu quân sĩ, ra sức chống đánh rồi chết
tại trận, truy tặng Chưởng cơ. Năm thứ liệt thờ vào Trung nghĩa từ. Con là
Nghiêm, ấm thụ Thất phẩm đội trưởng.

Đặng Đình Khải

Người Thạch Hà, Hà Tĩnh, đỗ hương tiến năm Thiệu Trị thứ 6 (1846). Hồi
đầu niên hiệu Tự Đức (1848), bổ Hàn lâm kiểm thảo sung việc biên chép
sách Đại Nam hội điển. Trải Tri huyện 2 huyện Phong Đăng, Thủy Đường,
mãn trật, được. cất lên Tri phủ Minh Giang rồi chuyển về Hộ bộ viên ngoại
lang. Sau lĩnh Lang trung sung quân thứ Hải An có nhiều chiến công, được
thưởng 2 lần quân công kỷ lục. Năm thứ 17 (1863) làm bang biện Hải
Dương tỉnh vụ. Mùa đông năm ấy, trận đánh ở Lịch Liệt thất lợi, bị giặc
bắt, mắng giặc không chịu khuất mà chết; truy tặng Lang trung. Năm thứ
33 (1880) liệt thờ vào Trung nghĩa từ.

Nguyễn Huy Tân

Người Đông Ngạn, Bắc Ninh. Đỗ hương tiến năm Thiệu Trị thứ 7 (1847),
bổ giáo thụ Hoài Đức, quy Đốc học Hà Nội rồi vào làm Giám sát ngự sử.
Tự Đức năm thứ 15 (1862) được phái đi Bắc (Ninh quân) thứ đánh dẹp,
trận đánh ở Xương Giang bị chết tại trận. Tặng Hàn lâm thị độc, liệt thờ
vào Trung nghĩa từ và ấm thụ con làm Chánh cửu phẩm văn giai.

Hoàng Văn Giảng

(Phụ: Lê Thanh Bạch, Thanh Phái)

Người Hải Lăng, Quảng Trị. Đỗ hương tiến Thiệu Trị năm thứ 7 (1847)
được bổ Tri huyện Tiến Lữ. Tự Đức năm thứ 12 (1859) bổ đồng tri lãnh Tri
huyện Kim Thành, lại đổi đi tri huyện Phù Cừ rồi thự Tri phủ Khoái Châu.
Sau bổ Thị giảng lĩnh Hà Tĩnh quản đạo. Năm thứ 17 (1864) lĩnh Án sát sứ

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.