ĐẠI NAM LIỆT TRUYỆN - TẬP 4 - Trang 356

Ngô Trực Nghĩa

Người Đông Thành, Nghệ An. Cha là Trực Tâm, do chân tú tài sung cử, sát
hạch rồi bổ làm quan. Từng làm đồng Tri phủ Kiến Xương, nhân việc công
sai lầm, về quê dạy học, học trò rất đông, và nhiều người thành tựu. Sau lại
đi thi, luôn bị quan trường đánh hỏng, học đến bạc đầu không toại chí, phái
nhà nho đương thời lấy làm tiếc.

Trực Nghĩa, lúc nhỏ thông minh, cũng có văn tài. Đỗ hương tiến Thiệu Trị
năm thứ 6 (1846). Bắt đầu bổ huấn đạo Kim Thành rồi qua Tri huyện Văn
Chấn, có tiếng tốt, sau có đại tang phải dời chức. Năm thứ 13 (1860) đổi đi
Tri huyện Yên Hưng được phái sang Hải An quân thứ bổ vụ, đánh nhau với
giặc bị chết trận, được truy tặng Hàn lâm viện thị độc. Năm thứ 32 (l879)
liệt thờ vào Trung nghĩa từ. Con là Phú, ấm thụ Chánh cửu phẩm văn giai.

Đặng Hữu Khuê

Người Phú Vang, Thừa Thiên. Thiệu Trị năm thứ 6 (1846) vào làm thủ lại ở
phủ Trấn Tĩnh quận công rồi xin đi mộ dõng theo quân thứ. Tự Đức năm
thứ 14 (1861) thăng mãi đến Phó quản cơ sung Thái (Nguyên quân) thú đốc
binh, luôn lập chiến công, được thăng Phó lãnh binh quan Lạng Sơn. Bấy
giờ phỉ người Thanh lan tràn quấy nhiễu. Hữu Khuê đóng giữ đồn Quang
Lang, đánh nhau với phỉ bị thua, chết tại trận, được truy thụ Lãnh binh
quan, gia tặng Chưởng vệ và liệt thờ vào Trung nghĩa từ. Con là Hữu Lai,
do chân ấm sinh làm đến Chánh đội.

Trần Văn Uy

Người Phong Điền, Thừa Thiên, có sức mạnh, khi bé học tập võ nghệ. Tự
Đức năm thứ 6 (1853), đầu mộ vào Tuyển phong vệ, qua thăng Cai đội.
Năm thứ 14 (1861), vua duyệt đấu côn, dự bình hạng, được bổ Trung tiệp
phó quản cơ Nam Định, đi tuần trong tỉnh hạt bắt được thuyền phỉ, được
cất lên chức Quản cơ lĩnh Phó lãnh binh quan Hà Tĩnh. Năm thứ 25 (1872),

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.