ĐẠI NAM LIỆT TRUYỆN - TẬP 4 - Trang 354

sự trạng đi quân thứ thuật lại trong khi mắc nạn) hơn 500 lời nói, rồi không
chịu khuất phục,

Lê Huy Trạc

(Anh là Độ)

Người Ngọc Sơn, Thanh Hóa. Đỗ hương tiến năm Thiệu Trị thứ 3 (1843).
Bắt đầu bổ Hàn lâm kiểm thảo biên chép văn qui đời Thiệu Trị. Tự Đức
năm thứ 7 (1854) bổ Tri phủ Cẩm Giàng. Bấy giờ giặc cỏ đương đánh phá
chiếm cứ phủ thành. Huy Trạc được lệnh bổ, cương quyết mang hơn 10
người thân thuộc tùy tòng, từ giã mẹ ra đi nhậm chức. Anh là Huy Độ vốn
người hữu ái, thấy thế nguy, đi theo với em. Khi đến nơi, theo đạo quân
tỉnh Bắc đến lấy lại được phủ thành. Mới được hơn 1 tháng, giặc lại áp đến
quây đánh. Huy Trạc mang hết lực lượng chống giữ. Thế rồi sức kiệt, thành
vỡ. Huy Trạc cùng anh đều bị bắt, mắng giặc không chịu khuất, giặc đều
giết cả. Việc tâu lên, cho truy tặng Hàn lâm thị độc, liệt thờ vào Trung
nghĩa từ và ấm thụ cho một người con làm Chánh cửu phẩm văn giai. Lại
thụ hàm Chánh cửu phẩm cho Huy Độ và sai quan hữu từ cấp nuôi cho
người mẹ, đôi lúc thăm nom. Con Huy Trạc là Tập, sau đỗ thi hương.

>

Trần Hòa

Người Vĩnh Bình, Gia Định. Đỗ hương tiến hồi đầu Thiệu Trị. Thăng mãi
đến Hàn lâm thị giảng sung Binh bộ đạo án Giang. Tự Đức năm thứ 14
(1861) Man mục là ốc nha Long (ốc nha là chức quan; Long là tên người)
kéo đến quấy nhiễu bảo An Tập, Hòa mang quân đánh, bị giặc giết chết.
Vua cho rằng Hòa tuy khinh chiến bị hại, nhưng là một quan văn mà trung
dũng chết vì việc nước thời nghĩa khái đáng khen, cho truy tặng Thị độc
học sĩ và cấp tuất gấp đôi. Năm thứ 33 (1880) liệt thờ vào Trung nghĩa từ.

Bùi Thắng

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.