Người huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Lúc mới ra đầu quân, khi ấy Hiến
tổ chưa lên làm vua, chọn vào hầu trong. Vì là thân cẩn, được tin yêu, hầu
hạ hơn 10 năm, trải thăng đến cai đội. Khi Hiến tổ lên ngôi năm đầu, bổ
làm Thị vệ bậc 3, lâu năm làm tới Chưởng vệ.
Tự Đức năm thứ nhất, quyền Chưởng ấn triện doanh Hổ uy quản lính Thị
vệ đại thần; trải làm Thống chế đô thống, rồi đến Tiền quân Đô thống phủ
đô thống.
Năm thứ 9, viện lệ xin về hưu. Vua cho Chỉ Tín sức lực còn thể theo làm
việc quan được, cố lưu ở lại.
Năm thứ 13, chết ở chỗ làm quan, gia ân cho tiền, lụa rất hậu, sai quan đến
tế.
Năm thứ 33, vua lại nghĩ Chỉ Tín là thần bộc của triều trước chuẩn cho
được liệt tự ở đường Phương gia ngoài cửa Khiêm
Khi trước, vợ Chỉ Tín là Hoàng Thị sung làm nữ quan ở Nội đình phong
làm Thục nhân. Con có 2 người, con lớn là Chỉ Hiếu lấy Nghĩa Chưởng
công chúa, bổ làm Phò mã đô úy làm đến Phó vệ úy; con thứ là Chỉ Trung
đỗ cử võ, làm Viện khanh ở viện Vũ bị; cháu là Phái được ấm thụ Hàn lâm
viện kiểm thảo.
Nguyễn Khắc Trạch
Tên tự là An Phủ, người huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên.
Minh Mạng năm thứ 6, đỗ hương tiến, trải làm Huyện thừa huyện Yên Lạc,
bổ Tri huyện huyện Yên Lạc.
Năm thứ 19, đổi làm đồng Tri phủ Yên Khánh, rồi vào làm Viên ngoại lang
Bộ Hình.