Ngày 14, quân ra cửa sông Hát tiến theo cả hai đường thuỷ, bộ. Tướng Mạc
là Mạc Ngọc Liễn dàn thuyền để chống cự, cắm cọc gỗ ở cửa sông Hát, đắp
luỹ đất trên bờ sông làm thế hiểm vững. Quan quân tiến đánh phá được.
Ngọc Liễn bỏ thuyền lên bộ chạy đến chân núi Tam Đảo, tướng tốt đều tự
bỏ thuyền chạy lên bờ. Quan quân qua sông, lấy được thuyền bè khí giới
nhiều không kể xiết. Thừa thắng đuổi dài đến tận cửa Nam thành Thăng
Long, đóng quânở bến Sa Thảo2625 , lấy được thuyền lớn, thuyền nhỏ
hàng nghìn chiếc.
Đêm ấy, Mậu Hợp trốn chạy về huyện Kim Thành, trấn Hải Dương. Tông
tộc họ Mạc đều bỏ trốn. Các tướng Mạc lũ lượt kéo đến cửa quân đầu hàng.
Tiết chế Trịnh Tùng truyền lệnh cho các dinh đóng quân ở bến Sa [34a]
Thảo. Ngăn cấm quân sĩ không được cướp bóc, để dân được yên nghiệp.
Dân các phủ huyện Thuận An, Tam Đới, Thượng Hồng2626 phía bắc sông
Nhị đều xin đầu hàng. Tiết chế Trịnh Tùng
hạ lệnh vỗ yên. Đảng cướp ở Thái Nguyên là Liêm quận công (không rõ
tên) cũng đem đồ đảng bản bộ 5000 người về hàng.
Ngày 25, Tiết chế Trịnh Tùng tiến quân đến xứ Hải Dương đuổi dẹp bè lũ
họ Mạc. Hạ lệnh trong quân rằng: Quân đi đến đâu, không được cướp bóc
dân lành, hiếp dâm đàn bà con gái. Quân đều nghe lệnh, dân đều vui mừng,
mở cửa đón tiếp. Khi đến huyện Phù Dung2627 , đóng quân ở Liễu Kinh,
sai Tả thuỷ dinh là Thái quận công Nguyễn Thất Lý đốc suất bọn Tiền thuỷ
quân Bùi Văn Khuê và Đường quận công, Trực quận công (đều không rõ
tên) cùng với các cơ Nội thuỷ, [34b], 300 chiến thuyền đánh phá huyện
Kim Thành. Họ Mạc bỏ thành chạy trốn, quân trước, quân sau không tiếp
ứng được nhau, bỏ hết cả thuyền bè. Quan quân thu được vàng bạc, của cải
và đàn bà con gái nhiều không kể xiết. Quân Hải Dương chạy trốn tán loạn.
Quan quân bắt được thái hậu của họ Mạc đem về. Đến bến Bồ Đề, thái hậu
họ Mạc vì lo buồn mà chết.
Mạc [Mậu Hợp] lập con là Toàn làm vương, sai coi việc nước, đổi niên
hiệu là Vũ Anh năm thứ 1, rồi tự làm tướng đốc quân chống lại triều đình.
Tháng 12, ngày mồng 1, giờ Mão, trong mặt trời có hai điểm đen hình như
con quạ.