Mùa thu, tháng 7, ngày mồng 1 Giáp Tý, nhật thực.
Thái sư Đỗ An Di chết, lấy Thái phó Ngô Lý Tín làm Phụ chính.
Kỷ Dậu, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ 4 [1189] , (Tống Thuần Hy năm thứ
16). Mùa xuân, tháng 2, ngày mồng 1 Tân Dậu, nhật thực, mặt trời mặt
trăng sắc đỏ như máu.
Động đất,
Tháng 3, vua ngự đi khắp núi sông, phàm xe vua đến đâu mà có thần linh
đều cho phong hiệu và lập miếu để thờ.
Canh Tuất, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ 5 [1190] , (Tống Thiệu Hy năm
thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, hoàng thái hậu họ Đỗ băng.
Mùa thu, tháng 7, Thái phó ngô Lý Tín chết, lấy Đàm Dĩ Mông làm Thái
phó.
Mùa đông, tháng 10, vua lễ yết Sơn Lăng, rước tượng mới tô của Hoàng
thái hậu thờ phụ vào Thái Miếu.
Đóng thuyền Ngoạn Dao.
[21b] Tân Hợi, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ 6 [1191] , (Tống Thiệu Hy
năm thứ 2). Mùa xuân, nước Chân Lạp sang cống.
Mùa đông, tháng 12, sao Huỳnh Hoặc phạm vào sao Thái Bạch
683
.
Nhâm Tý, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ 7 [1192] , (Tống Thiệu Hy năm
thứ 3). Mùa hạ, tháng 6, động đất.
Mùa thu, tháng 7, sét đánh vào điện Vĩnh Ninh hai chỗ.
Người giáp Cổ Hoằng
684
ở Thanh Hóa làm phản, sai tướng đi đánh, dẹp
được. Trước đó có người giáp ấy thấy vệt chân trâu [trèo lên] cây muỗm,
nhìn lên thấy con trâu bạc, hồi lâu, nó lại theo ngả khác đi xuống. Có người
lính ở giáp ấy là Lê Văn đoán rằng: Trâu trắng là vật ở dưới, nay lại ở trên
cây, thế là điềm kẻ dưới lên ở trên". Nhân đó bèn rủ nhau làm phản. Đến
đây đánh dẹp yên được.
Đào sông Tô Lịch.
Quý Sửu, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ 8 [1193] , (Tống Thiệu Hy năm
thứ 4). Khảo khóa các quan văn võ trong ngoài, để rõ nên giáng hay thăng.
[22a]thi các sĩ nhân trong nước để [chọn người] vào hầu vua học.