Đằng.
Hưng Đạo Vương vâng mệnh điều quân dân các lộ Hải Đông, Vân Trà, Ba
Điểm
837
, chọn những người dũng cảm làm tiền phong, vượt biển vào Nam,
thế quân lên dần. Các quân thấy vậy, không đạo quân nào mà không tới tập
hợp. Vua làm thơ đề ở [45a] đuôi thuyền rằng:
Cối kK cựu sự quân tu ký, Hoan Diễn do tồn thập vạn binh. ( Cối Kê
838
chuyện cũ người lên nhớ, Hoan Diễn
839
còn kia chục vạn quân) Hưng Vũ
Vương Nghiễn, Minh Hiến Vương Uất, Hưng Nhượng Vương Tảng, Hưng
Trí Vương Hiện đốc suất 20 vạn quân các xứ Bàng Hà
840
, Na Sầm
841
, Trà
Hương, Yên Sinh, Long Nhãn
842
đến hội ở Vạn Kiếp, theo quyền điều
khiển của Hung Đạo Vương để chống quân Nguyên.
Trước đây, Hưng Đạo Vương có người nô là Dã Tượngvà Yết Kiêu
843
, đối
xử rất hậu. Khi quân Nguyên tới, Yết Kiêu giữ thuyền ở Bãi Tân
844
, Dã
Tượng thì đi theo. Đến lúc quan quân thu trận, thuỷ quân tan cả. [Hưng
Đạo] Vương định rút theo lối chân núi. Dã Tượng nói:
"Yết Kiêu chưa thấy Đại Vương thì nhất định không dời thuyền".
Vương đến Bãi Tân, chỉ có thuyền Yết Kiêu vẫn còn ở đó. Vương mừng
lắm, nói :
"Chim hồng hộc muốn bay cao phải nhờ ở sáu trụ cánh. Nếu không có sáu
chiếc trụ cánh ấy thì cũng chim thường thôi".
Nói xong cho chèo thuyền đi, Kỵ binh giặc đuổi theo không kịp. Vương
đến Vạn Kiếp, chia quân đón giữ ở Bắc [45b] Giang
833
.
Sai Hàn lâm [viện] phụng chỉ Đinh Củng Viên quyền coi việc Bắc cung
Nội sát viện.
Ất Dậu, [Thiệu Bảo] năm thứ 7 [1285], (từ tháng 9 về sau là Trùng Hưng
năm thứ nhất, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 22). Mùa xuân, tháng giêng,
ngày mồng 6, tướng Ô Mã Nhi
846
đánh vào các xứ Vạn Kiếp và núi Phả
Lại
847
,
quan quân vỡ chạy
848
.
Ngày 12, giặc đánh vào Gia Lâm, Vũ Ninh
849
, Đông Ngàn
850
, bắt được
quân của ta, thấy người nào cũng thích hai chữ "Sát Thát"
851
bằng mực vào