Kiến Xương, miếu hiệu là Hiến Tông.
Sử Thần Ngô Sĩ Liên nói: "Vua tuy có thiên tư tốt đẹp, nhưng vì tuổi trẻ nối
ngôi, công việc trong nước đều do Thượng hoàng giữ cả, thì cũng như là
người chưa nắm việc của đất nước, tức như câu "cha còn sống, con không
được chuyên quyền""
1060
vậy, còn bàn vào đâu được nữa.
Mùa thu, tháng 8, ngày 21, Thượng hoàng đón hoàng tử Hạo lên ngôi
Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiệu Phong năm thứ 1.
Đại xá.
[ Vua ] tự xưng là Dụ Hoàng. Các quan dâng tôn hiệu là Thống Thiên Thể
Đạo Nhân Minh Quang Hiếu Hoàng Đế. Vua lúc ấy mới lên 6 tuổi.
[Thượng hoàng ] không lập con trưởng là Cung Túc Vương Dục, Vì [Dục]
là người ngông cuồng.
Sai Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn làm biên soạn bộ Hòang triều
đại điển và khảo soạn bộ Hình thư để ban hành.
[11a] Dụ TÔNG HOÀNG ĐẾ
(Phụ:HÔN ĐỨC CÔNG DƯƠNG NHẬT LỄ, 1 năm )
Tên húy là Hạo, con thứ mười của Minh Tông, do Hiến Từ Hoàng hậu sinh
ra. Ở ngôi 28 năm,thọ 34 tuổi, băng táng ở Phụ Lăng. Vua tính rất thông
tuệ, học vấn cao minh, chăm lo việc võ, sữa sang việc văn, các di thần đều
phục. Đời Thiệu Phong, chính sự tốt đẹp; từ năm Đại Trị về sau, chơi bời
quá độ, cơ nghiệp nhà Trần suy yếu từ đó.
Nhâm Ngọ, [Thiệu Phong] năm thứ 2[1342], (Nguyên Chí Chính năm thứ
2). Mùa xuân, tháng 3, xét duyệt các quan văn võ và tạp lưu.
Mùa hạ, tháng 4, phong con gái của Thượng hòang là Ngọc Tha (còn chép
là Bạch Tha) làm Thiên Ninh công chúa, gã cho Chính Túc Vương Kham,
(có sách chép là Hưng Túc).
Tháng 5, chúa Chiêm thành Chế A Nan chết. Con rể là Trà Hòa Bố Đề tự
lập làm vua, sai đến cửa khuyết báo tin buồn.
Mùa thu, tháng 7, tôn Hiến Từ hoàng hậu làm Hoàng Thái hậu.
Lấy Trương Hán Siêu làm [11b] tả ty lang trung kiêm Kinh lược sứ Lạng
Giang; Nguyễn Trung Ngạn chọn đinh tráng các lộ bổ sung các ngạch thiếu