nhân cách là tổng thể, nghĩa là trở thành một con người toàn vẹn nhất mà
hoàn cảnh cá nhân cho phép. Chúng ta sẽ trở lại với những vấn đề này sau.
Quyết định trở thành nhà tâm thần học của Jung xuất hiện vào cuối thời
kỳ học ngành y, khi ông xem lướt qua cuốn sách giáo khoa Tâm thần học
của Kraft-Ebing. Chỉ riêng Lời nói đầu của cuốn sách đã tác động tới mức
ông phải đứng dậy để hít một hơi sâu. Điều khiến ông bị kích động là việc
Kraft-Ebing mô tả chứng loạn thần (các bệnh tâm thần quan trọng như tâm
thần phân liệt, hưng trầm cảm nặng khiến người bệnh mất khả năng lập
luận) là “những bệnh về nhân cách”, và tuyên bố các cuốn sách về tâm thần
học biểu lộ những đặc điểm chủ quan của tác giả.
Jung kể “trong một thoáng sáng tỏ”, ông đã thấy tâm thần học là nghề
nghiệp duy nhất ông có thể theo đuổi. “Chỉ ở đây, hai luồng quan tâm của tôi
mới có thể chảy cùng nhau như một dòng chảy hợp nhất và tạo ra châu thổ
của chúng. Đây là lĩnh vực thực nghiệm cho cả những sự kiện sinh học và
tâm linh mà tôi đã tìm kiếm nhưng không thấy. Đây cuối cùng cũng là nơi sự
va chạm giữa tự nhiên và tinh thần trở thành một thực tại” (Tự truyện, trang
111).
Những năm thực tập
Khi Jung báo với người hướng dẫn và các nghiên cứu sinh khác rằng
ông định chuyên sâu vào tâm thần học, họ đã sốc vì cảm thấy ông đang lãng
phí tài năng của mình. Tâm thần học là chuyên khoa ít được xem trọng nhất
trong y khoa, và họ tin Jung có thể có một tương lai xán lạn với nghề y sĩ
điều trị. “Vết thương của riêng tôi, cảm giác là một người ngoài, xa lánh
người khác lại bắt đầu nhức nhối” (Tự truyện, trang 111). Tuy nhiên, sau khi
đạt học vị xuất sắc vào cuối năm 1900, ông được nhận vào làm việc tại Bệnh
viện tâm thần Burghölzli ở Zürich, với vai trò trợ lý cho Eugen Bleuler
(1857-1939), một trong những nhà tâm thần học xuất chúng thời đó, người