học thuyết tâm lý - kể cả của tôi - đều có tính chất của một sự thú nhận chủ
quan”, ông viết. “Ngay cả khi đang xử trí dữ liệu thực nghiệm, tôi cũng đang
nói về bản thân” (Toàn tập IV, đoạn 774). Điều tương tự cũng đúng với
Freud.
Cá thể hóa: sự thành tựu Ngã
Trong phần còn lại của cuộc đời, Jung tập trung vào động lực học của
sự chuyển hóa và trưởng thành cá nhân. Ông là một trong số ít các nhà tâm
lý học trong thế kỷ 20 khẳng định rằng quá trình phát triển kéo dài từ thời
tuổi thơ, thanh niên, qua trung niên và đến tận lúc già. Quá trình phát triển
kéo dài cả đời này được ông gọi là cá thể hóa (individuation), và ông tin
rằng nó có thể đem lại sự khai hoa kết trái tốt nhất nếu người ta tìm hiểu và
đương đầu với vô thức theo cách ông đã khám phá trong tiến trình Nekyia
của ông.
Ông muốn hàm ý gì khi nói đương đầu với vô thức? Ông trải nghiệm
vô thức như một sự hiện diện sống động và bí ẩn, sự song hành liên tục của
mọi khoảnh khắc thức (và ngủ). Đối với ông, bí mật về ý nghĩa cuộc đời có
liên hệ với sức mạnh quỷ thần này đến mức có thể biết nó. Về bí mật ấy, câu
đầu tiên trong Tự truyện của ông vang lên với chúng ta như một tiếng kèn
trumpet: “Cuộc đời tôi là câu chuyện về sự hiện thực hóa của vô thức”. Làm
thế nào chúng ta để vô thức có thể tự hiện thực hóa? Bằng cách cho nó tự do
bày tỏ, sau đó khảo sát những gì nó đã bày tỏ. Vì vậy, để tự hiện thực hóa,
tâm thần phải quay ngược vào chính nó và đương đầu với những gì nó tạo
ra. Để thực hiện thí nghiệm, một lần nữa Jung lại trải nghiệm bản thân như
thể tách thành hai - chủ thể ý thức là người trải nghiệm, ghi nhận và vật lộn
để sống còn, và khách thể vô thức, biểu hiện trong những nhân cách và sức
mạnh chế ngự, đòi hỏi sự chú ý và tôn trọng của người đó. Từ đây xảy ra hai