195
TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Sau hơn hai tháng trời làm việc không kể ngày đêm, cán bộ, chiến
sĩ Tiểu đoàn 603 đã dựng đủ lán trại để sinh hoạt tạm thời, đóng hoàn
chỉnh hai chiếc thuyền y hệt thuyền đi biển của ngư dân Khu 5, trọng
tải từ năm đến bảy tấn.
Có được thuyền rồi, nhưng lại thiếu buồm. Ngư dân Khu 5 không
dùng buồm bằng vải. Buồm của họ được kết bằng một loại lá cây
(gọi là lá đệm) mà khu vực Hà Anh, Quảng Bình, Vĩnh Linh tuyệt
nhiên không có. Thật là phiền phức không đáng có, nhưng buộc
lòng chúng tôi cũng phải liên hệ nhờ các anh ở Quảng Trị giúp
kiếm cho mấy tấm đệm làm buồm và bí mật đưa qua sông Bến Hải
an toàn. Đến cuối năm 1959, Tiểu đoàn đã có được hai chục chiếc
thuyền, đủ buồm, ngư cụ. Tất cả cán bộ, chiến sĩ của Tiểu đoàn
đều có chứng minh thư giả (có dấu nổi của tỉnh trưởng tỉnh Quảng
Nam). Vừa hoàn tất công tác chuẩn bị, chúng tôi vừa cho “Tập đoàn
đánh cá Sông Gianh”’ tiến hành đánh cá ven biển từ cửa Gianh vào
cửa Tùng và tiếp đó tổ chức vận chuyển hàng tiếp tế cho bộ đội
trên đảo Cồn Cỏ.
Vào khoảng tháng lO, theo sự chỉ đạo của Bộ Tổng tư lệnh, chúng
tôi cho Tiểu đoàn 603 bí mật đưa một số đài vô tuyến điện, vào đặt ở
khu vực dưới chân đèo Hải Vân, sát mép biển để bắt liên lạc với Liên
khu 5, chuẩn bị lực lượng và bến bãi đón hàng. Đồng thời chúng tôi
cũng tổ chức cho đồng chí Nguyễn Nữ cùng một số anh em đi thuyền
không vào đến Đà Nẵng. Sau đó các anh bỏ thuyền tìm đường lên
núi và theo tuyến giao liên Trường Sơn trở ra Thanh Khê.
Cũng do quan hệ hiệp đồng trước với Khu 5, nên chúng tôi được
bổ sung một số đồng chí từ Quảng Nam, Quảng Ngãi ra. Trong đó có
anh Huỳnh Ba, người Hòa Vang - Quảng Nam (tên thẻ căn cước giả
là Nguyễn Nửa). Đây là một trong những đồng chí mà tôi bố trí đi
chuyến đầu tiên. Mọi việc chuẩn bị hoàn tất, sau khi xin ý kiến của Bộ
Tổng tư lệnh, chúng tôi quyết định xuất quân. Thời điểm được chọn
cho thuyền rời bến là đêm ba mươi Tết Canh Tý (1960). Đây là thời
điểm tạo được yếu tố bất ngờ, bảo đảm bí mật an toàn.