DANH NHÂN ĐẤT VIỆT - Trang 140

đó, do có nhiều công lao chiến tích, lại là người cẩn thận, siêng năng, thanh
liêm, ngay thẳng, không xu nịnh, ông nhanh chóng được thăng nhiều chức,
cả văn lẫn võ. Từ chức Phiên tào ở phủ chúa Trịnh Giang, đến đầu đời
Cảnh Hưng (1740 - 1786) đã làm Tả chấp pháp ở Bộ Hình; năm 1744 bổ
làm lưu thủ trấn Hưng Hóa, sau làm đốc trấn Cao Bằng, tại cả hai nhiệm sở
trên ông đều có công lớn trong việc giữ gìn trật tự trị an trên vùng biên
giới. Năm 1756, ông được triệu về kinh đô Thăng Long nhận chức Thiêm
đô ngự sử, vào phủ Chúa giữ chức Bồi tụng (chức thứ hai sau Tham tụng),
tước Lễ Trạch hầu, kiêm giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám (Hiệu trưởng).
Năm 1765, ông về hưu mới được ít lâu đã được chúa Trịnh Doanh mời ra
giúp việc từ tụng, xét xử án từ. Đến năm 1770, ông dâng khải xin về hưu vì
tuổi già, chúa Trịnh Sâm không chuẩn y mà vẫn giữ ông lại Kinh đô để hỏi
ý kiến khi cần thiết. Sau đó, ông được khôi phục làm Thượng thư bộ Lễ, rồi
Thượng thư bộ Hộ, hàm Thiếu bảo, được liệt vào bậc Ngũ lão hầu. Chúa
Trịnh Tông vẫn còn triệu ông vào hỏi việc lúc ông đã 84 tuổi. Hai năm sau
ông mất, thọ 86 tuổi, linh cữu được rước về an táng ở quê nhà. Khi ông mất
được tặng chức Thái tể, tước Quận công.
Nguyễn Bá Lân trọn đời mang hết tài năng và đức hạnh của mình ra giúp
dân, giúp nước trên mọi cương vị, văn võ song toàn, văn hóa - giáo dục
uyên bác. Cho nên không lấy gì làm lạ khi thấy những danh nhân đương
thời đều nói về ông với những lời trân trọng nhất. Phan Huy Chú nhận xét:
"Khi bàn việc, ông giữ lòng trung thực, không che chở bênh vực ai, chúa
khen là ngay thẳng dám nói". Sử sách của Quốc sử quán triều Nguyễn về
sau cũng viết: "Nguyễn Bá Lân... làm quan thanh liêm, cẩn thận, ra trấn
Cao Bằng vỗ về nhân dân, dẹp yên giặc cướp, tỏ rõ công lao, vào triều
tham dự chính sự thì giữ đúng pháp luật, không hề a dua..." (Đại Nam nhất
thống chí). "Bá Lân là người có văn học, chất phác, thẳng thắn, mạnh dạn
dám nói" (Cương mục).
Đóng góp của ông về mặt văn học cũng đáng kể. Riêng với bài phú Nôm
Ngã Ba Hạc, bằng những hình ảnh mạnh mẽ, có phần tinh nghịch. Về phú
còn có nhiều bài chữ Hán, như Giai cảnh hứng tình, Dịch đình dương xa,
Trương Hàn tư thuần lư... Nguyễn Bá Lân còn có một số bài thơ vịnh sử,

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.