ĐỂ LÀNH BỆNH TỰ NHIÊN - Trang 182

may là nó chỉ đúng cho một phần ít những bệnh ung thư, chủ yếu là những ung thư của tuổi nhỏ, bệnh
bạch cầu (leukemias), bệnh u bạch huyết (lymphomas), bệnh ung thư ngọc hành (testicular cancer) và
nhiều thứ khác. Trong nhiều trường hợp, những tế bào của ung thư có mức độ phân chia thấp hơn
những mô hoạt động bình thường của cơ thể da, thành của đường bao tử, ruột, tủy xương (bone
marrow) và những cơ cấu miễn nhiễm khác. Phản ứng phụ quen thuộc của quang tuyến và cách chữa
hóa học mà ai cũng biết là rụng tóc, ăn không ngon, nôn mửa điều đó nói lên sự tổn hại của da và
đường bao tử, ruột. Tổn hại đến hệ thống miễn nhiễm thì ít rõ ràng hơn và ít được quan tâm hơn. Nếu
bạn bị ung thư và đang đối phó với quyết định có nên dùng phương cách chữa trị thông thường, câu
hỏi mà bạn phải trả lời là Liệu những tổn hại gây cho bệnh ung thư có bào chữa nổi cho những tổn hại
gây ra cho hệ thống miễn nhiễm không?
Cuối cùng, những hy vọng về cách chữa trị ung thư cũng tương đương với những hy vọng về những
phản ứng miễn nhiễm, vì hệ thống miễn nhiễm có tiềm năng nhận ra và giảm thiểu những mô độc hại.
Tương lai của những cách điều trị ung thư không phải là những vũ khí lớn và tốt hơn để giết tế bào
độc hại (vốn không bao giờ có khả năng giết tế bào độc hại mà không giết luôn những tế bào bình
thường đang lớn nhanh). Thay vào đó, tương lai sẽ dựa vào phương cách chữa trị miễn nhiễm
(immunotherapy) có khả năng lôi kéo hệ thống miễn nhiễm đang nằm ngủ thức dậy hoạt động. Một vài
hình thức của khoa chữa trị miễn nhiễm đang có mặt, nhưng phần lớn vẫn còn đang thời kỳ thử nghiệm.
Sự biến dần đi của ung thư một hiện tượng khá hiếm có vẻ do kết quả từ sự tác động vào hệ thống
miễn nhiễm một cách bất thình lình, điều đó nói lên tiềm năng của hệ thống miễn nhiễm phản ứng
chống lại sự tăng trưởng độc hại, đôi khi với một sự mạnh mẽ đến nỗi một đống lớn mô của cục u tan
rã trong vòng vài giờ hay ngày. Sau đây là một câu chuyện về sự tan rã của ung thư, được gửi đến tôi
bởi Bác sĩ Robert Anderson ở Edmonds, Washington, ông là cựu giám đốc của Hiệp hội chữa bệnh
toàn thể Mỹ quốc (American Holistic Medical Association).
Bệnh nhân là bà Helen B, là một người làm tóc được 67 đến khám định kỳ với Bác sĩ Anderson vào
năm 1985. Bác sĩ Anderson cảm thấy một mảng nổi lên trong khi khám âm đạo, ông nghĩ đây có thể là
vết từ một cuộc mổ tử cung trước đó nhưng hơi lo lắng khi thử máu cho thấy là bệnh nhân thiếu máu
với chức năng gan hoạt động không bình thường. Bác sĩ Anderson gửi bà đến một bác sĩ sản phụ khoa,
nhưng bà ngần ngừ chưa muốn đi, bà tin rằng bác sĩ cũ của bà cũng đã có những khám phá tương tự
vài năm trước đây. Hai người bác sĩ cũ đã mất, và hồ sơ y khoa của bà không thể tìm thấy. Khi Bác sĩ
Anderson tái khám bà 6 tuần sau đó, cái mảng nổi lên "càng lớn hơn nữa" và thử máu còn cho thấy
tình trạng càng tệ hơn. ông thúc dục bà nên đi khám một bác sĩ sản phụ khoa và thử nghiệm thêm vài
thứ thí nghiệm nữa, một trong những thứ đó là thử nghiệm siêu âm (ultrasound examination), tiết lộ
cho thấy "phía xương chậu bên trái đóng đầy chất nguyên thủy của buồng trứng".
Một tháng sau, bà Helen B được đi giải phẫu để tìm hiểu. Bác sĩ giải phẫu tìm thấy một khối u lớn
nằm bên trái và giữa xương chậu, dính líu đến ruột non và già, và ghi nhận thêm, "có vết sưng ở màng
bụng dài từ 3 đến 9 mm đóng rải rác quanh xương chậu và những lỗ hổng của bụng, nhiều hơn cả trăm
chỗ, có 5 vết được cắt đi làm thí nghiệm.”Bản báo cáo bệnh lý của sự thử nghiệm vết cắt (biopsies)
nói lên là, "Mụt u có vẻ là loại ung thư di căn toàn thân phân biệt đang ở trong tình trạng yếu kém, có
lẽ bắt nguồn từ âm đạo." Vài ngày sau, bà Helen tiếp tục giải phẫu thêm để cắt bỏ phần ung thư và
kèm theo một phần ruột non và già. Bà bị để lại sự mở thông ruột kết (colostomy) và mụt u vẫn còn
hiện diện nơi bụng của bà. Bản báo cáo bệnh cuối cùng của bà vẫn là "Ung thư di căn toàn thân có
nguyên nhân bắt nguồn từ âm đạo."
Bệnh ung thư di căn dù bắt nguồn từ bất kỳ nguyên nhân nào không phải là loại mụt u tốt. Những tế bào
đầu tiên có khuynh hướng mang độc chất cao và lan tràn khắp nơi; trong trường hợp của bà Helen thì
bệnh di căn đã lan tràn khắp những lỗ hổng ở bụng dưới, làm cho chuyện chẩn bệnh bị khó khăn. Bác

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.