đồng hồ. Sinh viên theo một mẫu cho sẵn, hỏi những câu hỏi như vẹt, rồi khổ nhọc viết lại những câu
trả lời. Vào năm Y khoa thứ ba, dưới áp lực của những giáo sư hướng dẫn, những sinh viên hiểu rằng
họ phải nhanh chóng tiến trình làm việc để cho công việc được hoàn thành. Khi đi nội trú, những lịch
sử y lý trở nên sắp xếp hợp lý hơn, phần lớn là loại bớt những câu hỏi. Không may là những câu về
lịch sử xã hội bị loại bỏ trước, vì bác sĩ đặt ưu tiên vào những câu về triệu chứng, những vấn đề sức
khỏe trong quá khứ, và thuốc men đang dùng hiện tại. Tôi gọi đó là chuyện không may vì kinh nghiệm
của tôi cho biết là lịch sử về xã hội của một người thường chứa đựng những mấu chốt liên quan đến
nguyên ủy của những vấn đề của bệnh nhân cũng như những gì có thể làm được cho giải pháp chữa
bệnh của họ.
Tôi tin rằng sự căng thẳng là nguyên nhân chính hay là nhân tố làm cho bệnh trầm trọng thêm trong
nhiều điều kiện vốn dĩ mang bệnh nhân tới bác sĩ. Chẳng hạn như một bệnh nhân tới than phiền về
chuyện nhức đầu thường xuyên, trong lúc khám thể chất tổng quát và thử máu thì thấy bình thường. Nếu
tôi muốn quyết định là chuyện nhức đầu đó có phải có liên quan đến sự căng thẳng hay không, tôi vẫn
thường hỏi một câu đơn giản. Những gì xảy ra với chuyện nhức đầu lúc bạn đi nghỉ hè ?" Những triệu
chứng biến mất lúc đi nghỉ hè có thể lại xuất hiện từ những hoàn cảnh căng thẳng trong đời sống làm
việc hàng ngày của người đó. Để quyết định hoàn cảnh nào là vấn đề - công việc, hôn nhân, thiếu quan
hệ, hay điều gì khác - đòi hỏi thêm một chút chứng cớ nào đó.
Vì tôi thường lấy lịch sử xã hội và công việc từ một kiểu mẫu của sức khỏe và sự lành lặn đã được
khẳng định trên sự giao tiếp tâm trí / thể chất. Tôi cũng nhận rõ những sự tương quan giữa những biến
cố có liên quan đến tinh thần / thể xác và sự đáp ứng lành lặn. Những sự tương quan này quan trọng,
vì chúng đề ra những cách giúp cho mọi người có thể giữ hệ thống lành lặn của họ làm việc tốt và có
thể dùng tâm trí của họ để tăng tiến chuyện lành lặn hơn là ngăn trở nó. Tôi sẽ trình bày vấn đề này
với chi tiết nhiều hơn trong Phần 2 của cuốn sách này.
Đầu tiên là chuyện báo cho biết trước. Đôi khi sự lành lặn chỉ xảy ra trong khi vắng mặt của bất cứ
thay đổi sâu đậm nào của trái tim hay tâm trí. Có những tên đểu giả lành những chứng bệnh hiểm
nghèo, trong khi nhiều vị thánh chết một cái chết dần mòn đau đớn. Ở mức độ của sự sửa chữa DNA
bằng enzymes, ảnh hướng của tâm trí trong tiến tình lành lặn có thể bỏ qua, vì nó có thể ở những mức
độ khác. Tuy nhiên, tôi nhìn thấy một vai trò rõ ràng của tâm trí trong chuyện lành lặn, hiển hiện trong
những tương quan của những sự đáp ứng lành lặn với những thay đổi có tính tinh thần và xúc cảm.
Chẳng hạn, một sự đáp ứng lành lặn đi theo sau một sự giải quyết một số tình trạng xáo trộn nào đó,
như chấm dứt một cuộc hôn nhân xấu hay bỏ một công việc cực nhọc khổ sở hoặc làm lành với một
nhân vật khó ưa trong gia đình. Một đồng nghiệp đã viết thư cho tôi cho biết rằng một trường hợp
ngoạn mục về chuyện lành lặn mà ông thấy là "một ông chủ nhà băng với bệnh cao huyết áp kinh niên,
trở nên có một áp suất máu bình thường một ngày sau khi vợ ông đâm đơn ly dị. Áp suất máu xuống
120/ 80 và ở mức độ đó luôn."
Có thêm một sự tương quan nữa là sự biến mất một căn bệnh hiểm nghèo và chuyện yêu đương. Tôi đã
từng nhìn thấy chuyện này với bệnh thấp khớp, bệnh lao da - và luôn bệnh đau cơ xương kinh niên
(chronic musculosketal pain) và bệnh mệt mỏi kinh niên. Tôi ước mong là tôi sẽ dàn xếp cho bệnh
nhân yêu đương nhiều hơn. Nếu tôi có thể tìm ra cách làm sao, tôi thực sự là người thực hành chữa
bệnh rất giỏi.
Tôi cũng nhìn thấy sự lành lặn được thúc đẩy bởi sự biểu hiện lòng tức giận. Những nhà thực hành
chữa bệnh trong thời đại kỷ nguyên mới vốn dạy bệnh nhân hãy rũ bỏ những xúc cảm tiêu cực có thể
không thích khi nghe điều này, nhưng thực tế là thực tế. Có một ví dụ là trường hợp một bệnh nhân
điều trị với tôi trong một thời gian dài, ông ta khoảng ba mươi tuổi có bệnh tự miễn dịch kinh niên
(chronic autoimmune disease) thường tấn công những tiểu cầu trong máu ông (blood platelets) và tế