khố Phủ toàn quyền Đông Dương (Hà Nội), sau là Giám đốc Thư viện Bảo
Đại, Giám đốc Sở lưu trữ văn thư Huế.
Sau Cách mạng tháng Tám, ông được cử làm Giám đốc Nha Lưu trữ công
văn và Thư viện toàn quốc ở Hà Nội (Theo sắc lệnh số 21 ngày 8 tháng 9
năm 1945, của Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)
nhưng ông bỏ việc trốn sang Lào, rồi về ẩn dật ở Đà Lạt.
Từ thập niên 1950, ông bắt đầu hoạt động chống cộng sản với sự thành lập
Liên đoàn Lao động Công giáo.
Ông là cha đẻ của Đảng Cần Lao, dựa vào thuyết Nhân Vị (personnalisme)
đúc kết hai xu hướng của triết gia công giáo Emmanuel Mounier và
Jacques Maritain.
Năm 1954, khi Ngô Đình Diệm lên cầm quyền, ông thành lập đảng chính
trị Cần Lao, dựa vào một chủ thuyết do ông khởi xướng là học thuyết Cần
lao - Nhân vị để hỗ trợ chính quyền của anh ông. Dưới sự giúp đỡ của
người Mỹ, đảng Cần Lao phát triển lên nhanh chóng, thâm nhập vào hàng
ngũ quân đội, công chức, trí thức và cả giới kinh doanh và trở thành chính
đảng lớn nhất thời bấy giờ. Đồng thời, ông cũng cho thành lập một tổ chức
có tên là "Thanh niên Cộng hòa", theo mô hình đảng sơ-mi nâu của Adolf
Hitler, do ông làm Tổng thủ lãnh. Một tổ chức khác dành cho phụ nữ có tên
là "Phụ nữ liên đới" cũng được thành lập và do vợ ông làm Tổng thủ lãnh.
Ông là Chủ tịch Ủy ban Liên bộ đặc trách Ấp chiến lược, tổ chức thực hiện
kế hoạch quốc phòng Ấp chiến lược từng gây khó khăn cho Mặt trận Dân
tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.