là “các quyết định làm ăn” và tin tưởng rằng họ đang làm theo những thông
lệ được chấp nhận để đạt được mục tiêu kinh doanh cuối cùng. Hoặc có thể
họ sẽ xem đó như là những quyết định pháp lý và sẽ chỉ đơn thuần tự hỏi
rằng những chiến lược kinh doanh họ đang theo đuổi có đúng pháp luật hay
không. Tuy nhiên, có vẻ như hầu hết đều không xem đó là những quyết
định mang tính đạo đức.
Đào tạo đạo đức kinh doanh có xu hướng phần lớn dựa vào cách tiếp
cận đạo đức được miêu tả ở trên: đó là nhấn mạnh vào các yếu tố đạo đức
của các quyết định với mục tiêu khuyến khích nhân viên chọn những con
đường đạo đức. Nhưng giả định thông thường mà quá trình đào tạo này dựa
trên là việc nhân viên sẽ chọn lựa đánh đổi giữa hành xử đạo đức và kiếm
lợi nhuận về cho công ty của mình quá hẹp. Nó đã bỏ qua sự thật rằng
những người ra quyết định thường không nhìn thấy “đạo đức” trong những
tình thế tiến thoái lưỡng nan về đạo đức có sẵn. Trong nhiều trường hợp,
người ra quyết định không nhận ra nhu cầu cần thiết phải áp dụng kiểu
phán xét đạo đức mà họ đã học trong các khóa huấn luyện đạo đức vào việc
đưa ra quyết định của mình.
Như chúng tôi đã miêu tả trong chương 1, tâm trí của chúng ta thường
hướng đến đạo đức có điều kiện hay những giới hạn nhận thức có thể khiến
chúng ta không ý thức được những khía cạnh đạo đức trong những quyết
định của mình. Thế giới bên ngoài cũng giới hạn khả năng chúng ta nhìn
thấy những khía cạnh đạo đức trong những quyết định cụ thể. Ví dụ, xét về
những khía cạnh của công việc hàng ngày bao gồm các mục tiêu, lương
thưởng, các hệ thống đánh giá mức độ tuân thủ (compliance systems) và
những áp lực hiện hữu có thể góp phần làm suy thoái đạo đức, một quá
trình mà các khía cạnh đạo đức bị loại trừ ra khỏi một quyết định.
và đồng sự của cô ấy, Dave Messick từng cho rằng những đặc điểm phổ
biến của các công ty có thể khiến chúng ta mù quáng trước những dấu hiệu
đạo đức của một quyết định, ví dụ hướng chúng ta tới việc phân loại quyết