Nguyễn Tử Quang
Điển hay tích lạ
Suối vàng hay chín suối
Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, lúc Thúy
Kiều cùng hai em đi dự hội đạp thanh và lễ thanh minh thấy mộ của Đạm
Tiên vắng lạnh hoang tàn, Kiều động lòng thương xót hỏi thăm. Được
Vương Quan kể lại cuộc đời bi thảm của nàng ca nhi nằm dưới mộ, Kiều
ngậm ngùi khóc, có câu:
Đã không kẻ đoái, người hoài,
Sẵn đây ta thắp một vài nén hương.
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Họa là người dưới suối vàng biết cho.
"Suối vàng" do chữ "Huỳnh tuyền" tức là suối nước màu vàng. Người Tàu
ngày xưa tin rằng ở dưới âm phủ có chín cái suối nước vàng, nên có chữ
"Cửu tuyền" tức là "Chín suối". Huỳnh tuyền hay Cửu tuyền, Suối vàng
hay Chín suối đều chỉ chỗ ở của người chết.
Đời Xuân Thu (722-479 trước D.L.), chúa nước Trịnh là Trịnh Trang công
tên Ngộ Sinh rất có hiếu với mẹ. Vì mẹ bất chính nên Trang công có lời thề
rằng: "Chẳng phải chốn suối vàng thì chẳng nhìn nhau" (Bất cập huỳnh
tuyền vô tương kiến dã).
Nguyên vợ của Trịnh Vũ công là Khương thị sinh được hai con. Con
trưởng là Ngộ Sinh, con thứ tên là Đoạn. Cái tên Ngộ Sinh là do sự đẻ thình
lình làm cho Khương thị chịu nhiều đau đớn. Vì đó mà Khương thị đâm ra
ghét Ngộ Sinh, thương Đoạn. Lại Đoạn người khôi ngô, thông minh, mặt
trắng như dồi phấn, môi đỏ như son, sức khỏe lạ thường, thêm tài kỵ xạ.
Khương thị rất mực thương yêu, muốn sau này được nối ngôi nên thường
khoe Đoạn là người hiền trước mặt chồng và tỏ ý muốn Đoạn được nối
ngôi thế tử. Trịnh Vũ công bảo: