nào cũng có sự báo thù.
Đêm ấy đã canh ba, chợt nghe một trận gió thơm thổi đến, khí lạnh tê
người. Nhà vua chợt thấy một người đàn bà yểu điệu, dung nhan đẹp đẽ, uy
nghi bước đến, cúi lạy vừa khóc rằng:
- Thiếp nghe đạo của kẻ phụ nhân là tòng nhất nhi chung. Quốc vương
trước của thiếp tuy chẳng dám so sánh cùng bệ hạ nhưng cũng là bực nam
tử kỳ tài riêng cõi. Thiếp từng được lạm dự phần khăn lược, chẳng may gặp
phải cảnh nước tan chồng mất, thiếp đêm ngày sầu thương, rầu rĩ, chỉ lo
báo bổ. Nhưng quần thoa yếu ớt chẳng biết tính sao? May nhờ hồng ân của
bệ hạ sai Trung Sứ tiễn thiếp xuống tuyền đài hội ngộ cùng chồng. Sở
nguyện của thiếp thỏa rồi, thế còn có linh gì mà dám đến đây đường đột!...
Nói xong, không thấy đâu nữa.
Vua kinh hãi tỉnh giấc, mới hay là chiêm bao. Đoạn truyền đem lễ vật đến
miếu cúng tạ, sắc phong làm Hiệp Chính Nương. Từ đó về sau, dân chúng
xa gần cầu đảo đều thấy linh ứng.
Cảm nỗi chua xót của nàng Mỵ Ê phải tuẫn tiết trong cảnh nước mất nhà
tan, thi sĩ Tản Đà có làm bài thơ từ khúc để tả nỗi lòng của người vương
phi bạc mạng:
Châu giang một giải sông dài,
Thuyền ai than thở, một người cung phi!
Đồ Bàn thành phá hủy,
Ngọa Phật tháp thiên di.
Thành tan, tháp đổ
Chàng tử biệt,
Thiếp sinh ly.
Sinh ký đau lòng kẻ tử quy!
Sóng bạc ngàn trùng
Âm dương cách trở
Chiên hồng một tấm,
Phu thê xướng tùy.
Ôi mây! Ôi nước! Ôi trời!