"Mây Tần" là lấy ở ý câu thơ trên: "Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại", nghĩa
là "Mây kéo phủ núi Tần Lĩnh, biết nhà ta ở đâu". Nghĩa bóng nói nhớ nhà.
Trong tác phẩm "Lục Vân Tiên" của cụ Nguyễn Đình Chiểu, đoạn nói về sự
ghét thương của ông quán, có câu:
Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
Sớm dâng lời biểu, tối đày đi xa.
cũng do điển tích trên.
"Mây Tần" nghĩa bóng chỉ nhớ nhà, nhớ quê hương, cha mẹ. Còn những
tiếng "Mây trắng", "Mây Hàng", "Mây bạc", "Mây vàng" cũng để nói ý nhớ
gia đình, nhớ cha mẹ, quê hương. Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh",
đoạn nói về nàng Kiều lúc vào lầu xanh lần thứ nhứt ở Lâm Truy, gặp Thúc
Sinh. Tên lái buôn này nhìn Kiều tắm, cảm hứng mới làm một bài thơ đoạn
bảo Kiều họa lại. Kiều từ chối vì nỗi lòng nhớ quê hương, gia đình mà
không còn ý nghĩ gì để làm được nữa, có câu:
Lòng còn gửi đám mây Hàng,
Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay.
Đời nhà Đường, Địch Nhơn Kiệt được bổ làm Pháp tào Tham quân ở thành
Tỉnh Châu. Cha mẹ thì ở đất Hà Dương, xa Tỉnh Châu có mấy ngày đường.
Một hôm, Địch lên núi Thái Hàng, nhìn thấy một đám mây trắng bay một
mình (bạch vân cô nhi) bèn nói với cả tả hữu: "Nhà cha mẹ ta ở dưới đám
mây trắng đó " (Ngô thân xé ư kỳ hạ).
Địch ngậm ngùi giờ lâu, đợi đám mây bay khuất mới về.
Cũng có bản chép là "Mây vàng": "Lòng còn gởi đám mây vàng", do câu
thơ cổ: "Thiên thượng hoàng vân ảnh du tử hà thơi qui", nghĩa là: "Trên trời
bóng mây vàng, gã xa nhà bao giờ về".
Trong bài "Tôn phu nhân qui Thục" của Tôn Thọ Tường cũng có câu: