CHƯƠNG
4
C
ác điền chủ vùng Bãi thụt Khổng Lồ hẳn không ưa đi dự những vũ hội
lớn. Tôi nghĩ như vậy bởi vì lễ thành niên của người thừa tự duy nhất một
gia sản dòng họ lớn đâu có phải là việc xảy ra luôn luôn ở cái xó hoe hút
này, vậy mà hai ngày sau chỉ có không được bốn chục người tụ hội ở trang
ấp Rừng Tùng Đầm Lầy. Tôi cũng được mời tới dự, tuy nhiên tôi nhận lời
một cách miễn cưỡng: tôi vốn dĩ không ưa giới sliăcta tỉnh lẻ, vả lại phần
công việc của tôi, mấy ngày vừa qua hầu như chẳng làm được gì. Không
ghi chép được gì mới và điều chủ yếu là chẳng nhích lên được bước nào
trong việc khám phá những bí ẩn của cái hang ổ ma quỷ này. Trên sơ đồ
thiết kế từ thế kỷ XVII không hề có một lỗ nghe nào, vậy mà tiếng chân
bước và tiếng rên rỉ đêm nào cũng vang lên, đều đặn đến phát ghen lên
được.
Tôi điên đầu suy nghĩ về những trò ma quỷ đó nhưng không nghĩ ra được
biện pháp gì.
Vậy là, có thể lần đầu tiên trong hai chục năm nay, tòa lâu đài mới đón
tiếp khách khứa. Người ta đốt những đèn đĩa lớn trên cổng vào, cởi bỏ bao
bọc đèn chùm, người gác cổng ăn vận lễ phục đón khách, thêm ba nữ hầu
bàn nữa được tuyển từ các trại quanh vùng. Tòa lâu đài trông giống như
một bà già bôi son trát phấn chuẩn bị đi dự vũ hội một lần dối già, ôn lại
những kỷ niệm thời xuân sắc để rồi bước xuống mồ.
Không biết có nên tả lại cuộc hội ngộ ấy của giới sliăcta hay không nhỉ?
Ôi lạy chúa tôi, những cỗ xe mới thảm hại làm sao! Cũ kỹ, da bọc đã nhăm
nhúm, sờn tróc, không lò xo, bánh cao đến hai mét. Những cỗ xe nào cần
thiết cũng có người hầu đứng bám sau thùng xe, tay chân đen thui đất cát.
Nhưng con ngựa mới thiểu não làm sao. Ngựa Rôtxinăng mà đứng cạnh thì
ta phải tưởng Rôtxinăng là tuấn mã Butxêphan: còm nhom, môi dưới trễ