Quốc ngỡ ông muốn chiếm lại Đài Loan. Nhưng chẳng bao giờ ông có ý
định ấy. Cá đảo Kim Mônvà Mã Tổ ông cũng không muốn lấy lại. Ông nói:
- Kim Môn và Mã Tổ là cầu nối của chúng ta với Đài Loan. Nếu chúng ta
chiếm lại chúng, chúng ta sẽ mất đi cầu nối này. Con người ai cũng có hai
tay phải không? Nếu chúng ta mất cả hai tay, chúng ta sẽ không nắm được
Đài Loan nữa. Hai hòn đào này là hai cái que chỉ huy của nhạc trưởng để
buộc Khơ-rút-sốp và Ai-xen-hao phải khiêu vũ. Đồng chí đã thấy tầm quan
trọng của hai hòn đảo này rồi chứ.
Đối với Mao, việc oanh tạc các đảo Kim Môn và Mã Tổ chỉ là một mánh
khóe để chứng tỏ với Khơ-rút-sốp và Ai-xen-hao về tinh thần độc lập và
khả năng hành động của Mao và sổ toẹt nỗ lực mới vì hòa bình của Khơ-
rút-sốp. Một mánh khóe khủng khiếp. Nó đã gây ra nguy cơ về một cuộc
chiến tranh nguyên tử đối với thế giới và đe dọa tính mạng của hàng triệu
nhân dân Trung Quốc.
Trong các hội nghị mở rộng của Bộ chính trị, có hai quyết định quan
trọng. Một là cả công xã nhân dân chính thức được coi là hình mẫu mới của
cơ cấu kinh tế và chính trị của đất nước. Hai là, trong vòng một năm, bằng
việc sử dụng những lò luyện kim gia đình, Trung Quốc phải tăng gấp đôi
sản lượng luyện kim. Cả đất nước Trung Hoa như trong cơn say. Mao đánh
giá cao về các công xã nhân dán và bỗng nhiên hàng loạt công xã nhân dân
được thành lập khắp nơi trong cả nước. Mao mới vừa nửa đùa nửa thật nghĩ
ra lò luyện kim gia đình mà mọi người đã vội xây ngay những chiếc lò đó.
Mọi việc diễn ra đúng như mong muốn của Mao.