tựa lá quát-lâu mọc so-le, xòe 5 chẻ như bàn tay, có răng cưa to lá non có
lông, lá già nhẵn phẳng, đầu mùa hạ những cành mới trong kẽ lá nẩy những
chùm hoa con sắc xanh lục nhạt, bầy sắp như cái nơm, hoa có 5 cánh, mùa
thu thì thành quả nhiều cùi mà ngon, mỗi chùm có đến 6, 70 quả, hình tròn
hoặc bầu dục, sắc lục hay sắc tía, có riêng hai giống trắng và xanh, ăn tốt và
làm thuốc được. Cuối thu lấy quả ép lấy nước dùng. Tính : ngọt, bình, chất,
không độc, làm lợi gân xương, trị tê liệt, và có chất bổ. Chủ : gân xương bị
thấp tê, thêm hơi thêm sức, mạnh trí não, khiến người béo và mạnh, chịu
được đói và gió lạnh, lợi tiểu tiện, trục tà thủy, dùng lâu nhẹ mình, lâu già,
sống lâu, có thể chế rượu được.
(Nhập-môn thực-loại) : ngọt, bình, không độc hay thấm xuống.
(Đan-khê) : thuộc thổ mà lại có tính thủy, mộc, hỏa, người ở phương
Đông-nam ăn thì lắm bệnh, nóng (phiền) buồn và hay tối mờ mắt. Người ở
Tây-bắc bẩm khí-hậu, ăn thì khỏe sức chịu được rét, bởi vì tính nó chạy
xuống mà hay thấm vậy, cho nên sách chép thông đường tiểu, trị bệnh tiểu
sáp và dầm rỉ, trục thủy khí trong người, chữa gân xương tê thấp và chữa
đậu sởi không ra được, giã lấy nước chấp hòa rượu uống. Rễ và lá. Tính :
ngọt, bình, chát, không độc, nấu nước đặc uống khỏi nôn ọe, và hoắc loạn
đau bụng, lại chữa đàn bà động thai sốc lên, dực tim, uống xuống ngay và
yên thai. Người ta gọi cây đó là thổ mộc-thông trục thủy và lợi tiểu tràng.
Kỵ : người có phong nhiệt và thực tà không nên dùng. Rượu bồ-đào chế
bằng quả hay thân cây. Tính : ngọt, cay, nóng, hơi độc. Chủ : làm thận và
lưng khỏi lạnh tươi sáng nét mặt chịu rét, lấy quả hay lá trộn với men cất
như cất rượu.
(Lý-thời-Trân) : rượu bồ-đào người có bệnh nhiệt bệnh đau răng và có
mụn đậu sởi không nên dùng.
(Đông-y) : quả tía gọi là mã-nhũ, quả trắng gọi là thủy-tinh có giống
quả tròn, giống quả dài và giống không có hột.
79. Bố-cốc-điểu
布谷鳥