(Lãn-ông) : chim chèo-bẻo, có tên là minh-cưu, thi-cưu. Tính : ôn,
bình, không độc. Chủ : làm yên thần định trí, khiến người vui vẻ hòa thuần,
ăn nhiều thì ít ngủ.
(Tham-khảo) : chim bố-cốc tức chim thi-cưu là loại chim hay ở gò, núi,
hình giống chim tu-hú (đỗ-quyên) mà lớn hơn, lại thuộc loại cú, toàn thân
màu vàng nhạt và xanh, sau tiết cốc-vũ mới kêu, hạ-chí thì thôi kêu, tiếng
kêu như (cát lúa cấy mạ) tính vụng không biết làm tổ, hay ở gốc cây hay ở tổ
chim khách. Tính : ôn, không độc.
(Đông-y) : mồng 5 tháng năm lấy xương sọ đầu và chân chim đeo thì
vợ chồng rất yêu nhau.
(Nhập-môn thực-loại) : mồng 5 tháng 5 lấy đầu và móng, đàn ông đeo
bên trái đàn bà đeo bên phải thì yêu nhau lắm.
80. Bổ-cốt-chi
補骨脂
(Tham-khảo) : người Hồ quen gọi là bà-cố-chỉ, sau gọi sai là phá-cố-
chỉ, trông tựa hạt hẹ của người Hồ, nên có tên là hồ-cửu-tử.
(Hòa-hán) : tên thiên-đậu, phản-cố-chỉ, sản ở Tứ-xuyên là tốt, rồi đến
Hà-nam An-huy và miền Việt-nam và nước Ba-tư. Cây bổ-cốt-chỉ cao 3, 4
thước loại thực vật, lá hình tròn, giống lá bạc-hà. Cuối hạ sang thu ở chẻ lá
sinh ra bông dài hơn tấc, bông nẩy hoa sắc tía, sau thành quả tròn tròn, to
hơn một phân, khi quả chín thì ở ngoài vỏ biến sắc đen, có lẫn cả màu nâu
đen, có khi hình tròn lệch tựa hạt vừng, thơm mà hơi tanh tanh, tháng 9 lấy
về. Có sách chép bổ-cốt-chỉ tính táo độc, nên ngâm rượu một đêm, rồi lấy
nước nấu chín phơi khô hay sao với muối cũng được. Tính : cay, đại ôn,
không độc, bổ mệnh-môn, thu nạp khí thận, là thuốc làm cho khỏe mạnh.
Chủ : 5 thứ lao hư, 7 thứ thương tổn, phòng hư lạnh xương tủy thương bại,
thận lạnh tính khí chảy ra. Kỵ : về đàn bà vì huyết khí có tính cách đọa thai
người âm hư hỏa động, dương-đạo tự nhiên hay cất (cỏng) di-tinh, mộng-
tinh, tiểu ra huyết tiểu-tiện ít khó đi, mắt đỏ, miệng đắng, lưỡi khô, đại tiện
táo, nóng bên trong khát nước, hỏa bốc mắt đỏ, hay đói rạo-rực, thấp nhiệt