đầu tiên mới sắp xuất hiện. Và nó xuất hiện từ trong lòng một cuộc khủng
hoảng tài chính sâu sắc chưa từng thấy.
Nền dân chủ sở hữu nhà ở
Ngôi nhà của một người Anh là lâu đài của anh ta, câu thành ngữ đã nói
như vậy. Cũng tương tự, những người Mỹ biết rằng (như Dorothy nói trong
Phù thủy xứ Oz) không có nơi nào giống như nhà của mình - ngay cả khi tất
cả các ngôi nhà trông đều na ná giống nhau. Song nguồn gốc của mô hình
Anh-Mỹ về một gia đình giàu có sở hữu nhà ở không chỉ thuộc lĩnh vực văn
hóa mà còn thuộc lĩnh vực chính sách của chính phủ. Nếu như hệ thống giai
cấp cũ dựa trên quyền sở hữu bất động sản của giới tinh hoa là hệ thống đặc
trưng của nước Anh, thì nền dân chủ sở hữu nhà được tạo ra tại Mỹ.
Trước thập niên 1930, chỉ có trên hai phần năm hộ gia đình Mỹ sở hữu
nhà riêng. Trừ phi bạn là một chủ trang trại, việc đi vay thế chấp mua nhà
là một ngoại lệ chứ không phải quy tắc. Một số rất ít người vay tiền để
mua nhà ở trong thập niên 1920 đã rơi vào tình thế cực kỳ khó khăn khi cuộc
Đại Suy thoái nổ ra, đặc biệt là nếu như người kiếm tiền chủ yếu của gia
đình rơi vào số hàng triệu người bị mất việc làm và thu nhập. Các khoản vay
thế chấp mua nhà đều là ngắn hạn, thường là từ ba đến năm năm, và không
được trả dần. Nói cách khác, người ta trả lãi vay, song không được trả số tiền
họ vay (tức là gốc) cho đến tận cuối kỳ hạn vay, do vậy kết cục là họ phải
đối mặt với kỳ trả cuối cùng kích cỡ phình to. Trung bình, chênh lệch (hay
biên độ) giữa lãi suất vay thế chấp mua nhà và lãi suất trái phiếu công ty cấp
hạng cao là khoảng 2 điểm phần trăm trong thập niên 1920, so với chỉ
khoảng nửa phần trăm (50 điểm cơ bản) trong vòng hai mươi năm trước đó.
Ngoài ra còn có sự dao động khá lớn theo khu vực đối với lãi suất vay thế
chấp mua nhà.
Khi mà nền kinh tế rơi xuống vực thì những người cho
vay lo lắng đơn giản là từ chối gia hạn. Trong hai năm 1932 và 1933, có
khoảng nửa triệu ngôi nhà bị tịch thu để thế nợ. Đến giữa năm 1933, mỗi
ngày có khoảng 1.000 vụ nhà thế chấp bị tịch thu để thế nợ. Giá nhà đất sụt