cười thời Thập lục quốc kể rằng. Vua nước Nam Yên là Mộ Dung Đức
đang lúc băn khoăn không biết nên tấn công thành nào, đã mời một hòa
thượng gieo một quẻ bói bằng Chu dịch.
Rajiva chỉ hỏi sơ vài câu đã biết những người này chẳng phải hòa thượng
cũng không phải đạo sĩ, đều là những kẻ giả danh, bọn họ không hiểu gì về
Phật pháp. Ngay cả đại danh của Rajiva cũng lờ mờ không rõ. Lại nhớ, trên
đường đến Guzang, mỗi khi tiến vào một tiểu quốc ở Tây vực, dân chúng
lại chen nhau ra đường đón chào nhiều giờ liền, chỉ vì muốn được chiêm
ngưỡng dung mạo của chàng. Quốc vương các nước đó cung kính tiếp đón
vì muốn mời chàng thuyết giảng Phật pháp. Nhưng khi bước vào hành lang
Hà Tây, cảnh tượng đó không còn nữa. Danh tiếng của chàng không bằng
cả tiếng tăm của một vài thầy bói chuyên đi đuổi ma dọa quỷ, dối gạt người
khác để kiếm cơm. Lương Châu giống như một hoang mạc của tín ngưỡng
Phật giáo.
Tôi rất mực dịu dàng, mô tả viễn cảnh tươi đẹp để động viên chàng. Tuy
không nói ra, nhưng tôi biết chàng đang rất hoang mang khi đứng trước
“hoang mạc” này, chàng đã phải gắng gượng để kiềm chế nỗi thất vọng
mãnh liệt. Rajiva bị ép phải sống đời sống thế tục, hàng ngày theo hầu Lữ
Quang đúng giờ. Nhưng chàng kiên quyết không để tóc, chàng vẫn mặc y
phục của tăng lữ, vẫn thức giấc rất sớm tụng kinh buổi sáng, buổi tối vẫn
chăm chỉ đọc sách để trau dồi trình độ tiếng Hán. Phần lớn văn võ bá quan
của Lương Châu đều từng theo Lữ Quang Tây chinh, nên hiểu rõ nguyên
nhân cuộc hôn nhân của chàng. Bởi vậy không ai tò mò hay thắc mắc về
cuộc sống của chúng tôi. Khác với những ngày ở Subash, ở đây, chúng tôi
không còn bị người ta săm soi, dò xét nữa.