gây ra một phong trào đầu thú. Bắt ép được vài ba người
đầu thú, chúng không bắt bớ gì, mà lại cho vài cân muối rồi
tha về. Tình hình ấy có thể nguy hại.
Tôi bàn với anh Đồng và anh Giáp đưa cán bộ xuống phân
tích rõ tác hại của việc đi đầu thú, đồng thời cũng bày cách
cho quần chúng, nếu bị chúng bắt đi đầu thú thì làm thế
nào để khỏi vỡ cơ sở, mà vẫn lấy được muối ăn. Quần
chúng làm theo, và do đó không bị thiệt hại.
Ở chiến khu, Bác vẫn mở các lớp huấn luyện cho cán bộ, và
chuyên chú viết sách tuyên truyền. Bác viết các sách Tam-
tư, Ngũ-tự, lại làm một quyển địa dư các tỉnh và một quyển
lịch sử Việt Nam bằng thơ lục bát. Quyển sử chép từ đời
Hồng Bàng cho đến thời Pháp thuộc, đằng cuối sách có mục
lục ghi rõ thời kỳ nào có phong trào gì chống đế quốc Pháp.
Cuối cùng Bác ghi Việt Nam độc lập năm 1945. Các đồng
chí đọc sách bàn tán rất nhiều niên hiệu đó. Có đồng chí
phàn nàn sao chậm thế, có đồng chí lại cho thế là sớm quá.
Bác chỉ bảo : ờ ờ để rồi xem xem.
Sau đó, cơ quan rời Pắc Bó về tỉnh lỵ Cao Bằng, khi di
chuyển, đi đêm, bị lạc anh em lủng củng gắt nhau. Bác cười
bảo : lạc càng biết thêm nhiều đường chứ sao. Tây nó đuổi
càng lắm lối chạy. Thế là mọi người lại vui. Khi về Pắc Bó,
sáng nào Bác cũng tập thể dục. Bác có hòn cuội, tròn như
quả quýt, luôn cầm ở tay, bóp vào lại xòe ra. Về Cao Bằng
Bác vẫn mang theo. Tới cơ quan mới, Bác bắt đầu dịch từ
Trung văn ra bộ lịch sử Đảng cộng sản ( Bôn-sơ-vích) Liên-
xô. Bác nhìn vào sách dịch rồi đánh máy luôn ra, không có
bản nháp. Cái máy chữ cũ Bác vẫn mang theo luôn bên