Nước Tần dấy lên, Lí Tư kêu cho
. Đời Hán, Tư Mã Thiên, Tương
Như, Dương Hùng đều là những người rất khéo kêu
. Về sau, hai đời
Nguỵ, Tấn, người kêu không khéo bằng thời cổ, nhưng cũng chưa hề dứt
tiếng bao giờ. Những người khéo kêu trong hai đời đó, tiếng thì trong mà
khinh phù, âm tiết thì tế toái mà gấp rút, văn từ thì dâm loạn mà ai oán, chí
thì buông thả mà phóng túng, lời thì tạp loạn mà không sáng sủa. Trời ghét
đức hạnh của họ mà không đoái thương họ chăng? Sao mà không khiến họ
kêu những lời kêu hay của họ?
Nhà Đường lấy được thiên hạ, Trần Tử Ngang, Tô Nguyên Minh,
Nguyên Kết, Lí Bạch, Đỗ Phủ, Lí Quán đều dùng sở trường của mình để
kêu
, còn lại những người ở dưới như Mạnh Giao Đông Dã
dùng thơ để kêu, lời cao hơn đời Nguỵ, Tấn, không trễ nải
cổ nhân, thấm nhuần lần lần thì có thể như đời Hán được. Trong số bạn theo
chơi với tôi, có Lí Cao, Trương Tịch là hơn cả
. Lời kêu của ba ông đó
thật là ai khéo. Nhưng không biết rồi đây, Trời sẽ làm cho thanh âm của họ
bắt thân họ phải khốn cùng, đói rét, hưng thịnh của quốc gia chăng? Hay là
được hài hoà để khiến họ kêu sự lòng họ phải tư lự âu sầu, khiến cho họ tự
kêu cái bất hạnh của họ chăng?
Vận mệnh của ba ông ấy là do Trời; vậy
thì ở ngôi cao, có gì vui? Ở ngôi thấp có chi buồn?
Ông Đông Dã ra nhậm chức ở Giang Nam
, có ý như không vui, cho
nên tôi bàn đến lẽ số mạng ở Trời để khuyên giải ông.
NHẬN ĐỊNH
Bài này rất nổi danh, nhà Nho thời xưa ai cũng phải đọc qua, vì hứng thú
văn chương thì ít mà vì lập trường của tác giả thì nhiều. Nó không hẳn là
một trang phê bình văn học, cũng không hẳn là một bản tuyên ngôn của một
văn phái, chỉ là một thiên tuỳ bút trong đó ta thấy rõ quan niệm của tác giả
về văn chương.
Câu đầu: “Đại phàm vật bất đắc kì bình tắc minh” diễn được một chân lí,
bao quát được vạn vật, mà áp dụng vào văn nhân thi sĩ lại càng hợp; bốn
chữ “bất bình tắc minh” trong câu đó đã thành một ngạn ngữ.