Từ vũ trụ vạn vật, tác giả thu dần về giới văn nhân (văn nhân hiểu theo
nghĩa rộng) để chứng minh luật bất bình tắc minh đó. Tác giả lược kể tất cả
các văn nhân từ đời Xuân Thu tới đời Đường, và ta thấy rằng ông trọng
Nho học hơn những đạo khác, trọng văn đời Hán hơn những đời sau (coi
chủ trương phục cổ của ông trong bài tiểu sử).
Những ý chính của ông có thể tóm tắt như sau:
người ta bất đắc dĩ mới viết văn, làm thơ.
trong sự bất đắc dĩ đó, cũng có phân biệt “thiện” và “bất thiên”; theo
ông “thiện” là phục vụ đạo Nho, có thể vui hoặc buồn, nhưng không
uỷ mị, ai oán.
nhưng dù thiện hay không thiện, thì cũng do Trời cả: Trời bắt suy thì
có giọng văn của Nguỵ, Tấn; Trời cho thịnh thì có giọng văn của Hán;
người chỉ là một khí cụ của Trời dùng để “minh” lên thôi. Ta tự hỏi:
nếu vậy thì văn nhân thi sĩ có chịu trách nhiệm về tư tưởng của mình
không?
tới cuối bài ông mới kéo ta về Mạnh Đông Dã. Mạnh có tài nhưng
không gặp thời nên chán đời (thuở trẻ ở ẩn), gần già mới được làm một
chức quan rất nhỏ ở xa kinh đô. Ông tặng bài tự này để an ủi (đã do
mệnh cả thì ở chức cao có gì mà vui, ở chức thấp có gì mà buồn?) và
khuyên bạn nên dùng âm thanh vui vẻ mà “minh” sự thịnh vượng của
quốc gia.
Ta thấy, ông không tích cực như Tuân Tử (triết gia chủ trương rằng việc
người với việc trời không quan hệ gì với nhau, mà người có thể thắng được
trời), nhưng cũng không hoàn toàn tiêu cực, vẫn cố tận lực hành đạo, rồi
thành hay bại là do mệnh trời, không quan tâm tới. Về điểm đó ông theo
đúng chủ trương của Khổng, Mạnh, cho nên người đời sau đặt ông đứng
sau Mạnh Tử, mà bài này được coi như kim chỉ nam của người cầm bút.
Giá trị của nó phần lớn ở đó.