phía dưới hình chữ nhật. “Ðây là cửa sổ,” nó trịnh trọng nói, “để ông còn
nhìn ra ngắm sông.”
Lão Armand hậm hự trong họng, kéo áo choàng che kín ngực như thể muốn
giấu đi trái tim. Chà, con bé sáo đá này đáng gờm đây. Lão phải cuốn gói
sớm thì hơn. Paris thiếu gì cầu, sông Seine chẳng chảy qua Paris ngoằn
ngoèo lắm đấy sao. Tìm một cây cầu khác đâu có gì khó nhọc. Nhưng đúng
lúc lão dợm bước đi thì con bé đã chạy theo tóm lấy ống tay áo rách bươm
của lão.
“Ông ở lại đi ạ,” nó nài. “Chúng cháu sẽ giả vờ ông là ông ngoại chúng
cháu.”
Lão Armand khịt mũi. “Này, bé con,” lão nói, “thứ nhất là triệu phú, thứ nhì
là ông ngoại, đó là những việc cuối cùng mà ta muốn làm trên đời.” Làu bàu
thì làu bàu vậy nhưng lão cũng bắt đầu dỡ đồ ra.
Lão chụm các thân và cành cây lại rồi vun hết lá vào. Lão lôi ra một tấm bạt
dơ dáy và một cái móc sắt han rỉ, đặt cái lon sắt nhọ nhem có quai cầm bên
cạnh đám lá, bày ra mấy cái dao muỗng cong queo. Cuối cùng, lão lôi ra một
chiếc giày cũ đã thủng đế.
“Chưa biết chừng lại sắp vớ được chiếc cùng đôi của nó cũng nên,” lão phân
trần với bọn trẻ. “Mà nó cũng vừa in chân ta.”
Bọn trẻ muốn giúp lão một tay. Ôi, cái lũ sáo đá này mới khôn chứ. Chúng
thật biết cách xỏ mũi một lão già. May mà lão chẳng phải ông nội ông ngoại
gì của chúng cả. Tuy nhiên, lão vẫn trải tấm bạt của mình lên chỗ hình chữ
nhật mà Suzy đã vẽ.
Lão Armand nhóm lửa với chỗ cành lá khô. Sau đó treo cái lon sắt to lên
ngọn lửa, lão đổ vào đó các mảnh vụn đồ ăn mà lão gói sẵn trong một miếng
báo.