tự kiếm tiền và tự đầu tư phát triển được. Thứ ba, đây cũng là nguồn thu nhập thêm chính đáng ngoài
lương nhà nước mà tháng nào cũng thiếu trước, hụt sau.
Ở trên ông có nói PPLST vừa cơ bản vừa thiết thực với từng người. Xin ông nói rõ thêm!
Ở các nước phát triển, để đối phó với các thách thức như tính cạnh tranh tăng, làm sao để đầu ra
ngày càng nhiều trong khi đầu vào ngày càng ít… đã xuất hiện nhu cầu xã hội đòi hỏi giải quyết các
vấn đề nhanh hơn và hiệu quả hơn. Chính nhu cầu xã hội đã thúc đẩy quá trình khoa học hóa lĩnh vực
tư duy sáng tạo. PPLST giúp nâng cao năng suất và hiệu quả tư duy sáng tạo, mà thực chất là quá
trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định, đầu tiên của các doanh nghiệp rồi các cơ quan chính
phủ, thậm chí, đến từng người trong xã hội.
Ông nhận xét gì về việc dạy, học và sử dụng phương pháp luận ở nước ta?
Người nước ta có câu: “Cho vàng không bằng chỉ đàng làm ăn”. Đàng làm ăn chính là phương
pháp làm ăn. Gần đây, các nhà lãnh đạo, quản lý giáo dục có kêu gọi đổi mới phương pháp dạy và
học. Tôi cho là quá muộn nhưng đành an ủi: Thà muộn còn hơn không. Nhìn rộng hơn, tình trạng làm
việc thiếu phương pháp ở nước ta khá phổ biến, do vậy các giải pháp, các quyết định đưa ra nhiều khi
mang tính mò mẫm, cứ phải sửa đi sửa lại, trả giá dài dài. Tệ hơn, có những người đã học phương
pháp trong nhà trường nhưng khi ra làm việc lại “cố ý làm trái”. Vụ hầm chui Văn Thánh 2 bị lún, nứt
một cách tệ hại chỉ là một trong nhiều ví dụ về việc vi phạm phương pháp đã có trong quá trình thăm
dò, khảo sát, thiết kế và thi công. Trong khi đó, những người chịu trách nhiệm về vụ việc nói trên lại
“thanh minh một cách dễ thương” là họ sốt ruột muốn thông xe nhanh để phục vụ nhân dân. Tôi rất lo
vì loại người “ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa” hình như ngày càng nhiều.
Ông dạy về các phương pháp suy nghĩ sáng tạo, giải quyết vấn đề. Vậy xin ông cho biết các
phương pháp mang lại ích lợi gì cho chính ông?
Đã hơn 30 năm nay tôi áp dụng PPLST vào giải quyết các vấn đề mình gặp trong công việc, cuộc
sống. Các ích lợi phải nói là rất nhiều, đến nỗi tôi phải chia cuộc đời mình thành hai thời kỳ: trước và
sau khi học PPLST. Ở thời kỳ sau, năng suất và hiệu quả công việc tăng lên, sai lầm và trả giá giảm
đi. Có hai việc làm tôi tự hào và vui nhiều, đấy là áp dụng PPLST để làm luận án tiến sĩ khoa học và
phổ biến PPLST ở VN. Ở ĐH tổng hợp Leningrad, nơi tôi làm việc trong lĩnh vực vật lý chất rắn thực
nghiệm, thời gian trung bình từ bậc 1 lên bậc 2 là 15 năm. Nhờ PPLST tôi đã thực hiện điều ấy trong
vòng 2 năm(1)…”