kiểu: từ cái trước dẫn đến cái sau, cái sau kế thừa và được phát triển tiếp từ
cái trước.
- Trong khi đó, bất kỳ một môn học nào cũng có thể xem là hệ thống các
kiến thức. Nhìn theo quan điểm hệ thống, hai cách dạy và học được mô tả
trên các Hình 153a và Hình 153b không cho thấy điều đó. Do vậy, hai cách
dạy và học trên làm hạn chế một cách đáng kể việc hiểu, nắm, khai thác và
sử dụng các tiềm năng của các kiến thức môn học cho trước. Trong ý nghĩa
đó, cách trình bày mô tả trên Hình 153c phù hợp với các quan điểm hệ thống
hơn và có được những ưu việt, nhờ các luận điểm của khoa học hệ thống
mang lại.
- Từ đây, chúng ta có thể thấy vai trò của các thầy, cô, tác giả trong việc
dạy và biên soạn các giáo trình của các môn học. Điều này cũng góp phần
giải thích vì sao học với thầy, cô này thì người đọc hiểu, nắm vững và áp
dụng tốt môn học, với thầy, cô khác thì không; vì sao đọc sách của tác giả
này, người đọc thấy hiểu môn học một cách lôgích, sâu hơn, đọc sách của
tác giả khác thì không.
- Nếu được trang bị các kỹ năng tự học theo các quan điểm hệ thống, một
người, thậm chí, rơi vào các hoàn cảnh như mô tả trên các Hình 153a và
Hình 153b vẫn có thể tự mình đi đến kết quả như trên Hình 153c. Thực tế
cho thấy đã có những người như vậy: Đấy là những người học một, biết
mười.
- Cao hơn nữa, nếu bạn coi các phần 1 , 2 , 3 còn gồm các hệ dưới, hệ
dưới nữa... cho đến các yếu tố cuối cùng, bạn có được hệ thống các kiến
thức của môn học cho trước ở thang bậc các yếu tố cuối cùng (xem Hình
148). Lúc đó, bạn còn hiểu, nắm, khai thác và sử dụng hệ thống các kiến
thức của môn học cho trước còn tốt hơn nhiều nữa.
- Tình hình trên thực tế phức tạp hơn rất nhiều, vì mỗi một môn học đâu
chỉ có ba phần (ba chương) mà thường nhiều hơn, chưa kể các kiến thức của
các môn học khác nhau lại liên kết với nhau. Tuy nhiên, theo người viết, các
nhận xét trình bày ở trên cần phải được lưu ý tính đến và sử dụng, khi chúng