nhiễm virus cho người khác, virus sẽ tự sao chép vào phần mềm khác, và cứ
thế lan truyền từ đĩa nọ sang đĩa kia.
Nếu virus vô hại, tuy khó phát hiện nhưng có lẽ nó cũng không gây nhiều
thiệt hại. Nhưng có thể dễ dàng tạo ra các virus độc hại biết tự nhân bản và
xóa hết các tệp tin dữ liệu, hay các virus nằm im lìm hàng tháng trời rồi một
ngày nào đó phát tác.
Virus là loài sinh vật ám ảnh lập trình viên trong những cơn ác mộng.
Trên cương vị siêu người dùng, gã hacker có thể gieo rắc virus vào hệ thống
ở mức độ việc nhổ chúng tận gốc là bất khả thi. Virus của hắn có thể tự sao
chép vào phần mềm hệ thống và ẩn nấp ở những vùng ngóc ngách tinh vi
trong máy tính. Bằng cách tự sao chép từ chương trình này qua chương trình
khác, chúng sẽ vô hiệu hóa các nỗ lực diệt trừ của chúng tôi.
Khác với các loại máy tính gia dụng có thể xây dựng lại hệ điều hành từ đầu,
chúng tôi đã chỉnh sửa hệ điều hành nhiều tới nỗi không thể đi đến gặp nhà
sản xuất và yêu cầu: “Hãy đưa cho chúng tôi một phiên bản gốc.” Khi bị
nhiễm virus, chúng tôi chỉ có thể xây dựng lại hệ điều hành dựa trên những
băng từ dự phòng. Nếu hắn cấy virus vào đây từ sáu tháng trước thì băng dự
phòng của chúng tôi khéo cũng bị nhiễm rồi.
Biết đâu hắn đã cấy một quả bom logic – một chương trình hẹn giờ phát nổ
vào một thời điểm nào đó trong tương lai. Hoặc cũng có thể kẻ xâm nhập chỉ
mới cướp các tệp tin dữ liệu, tiêu diệt một vài chương trình và làm loạn phần
mềm thống kê của chúng tôi. Nhưng làm sao để khẳng định rằng hắn chưa
làm điều gì tồi tệ hơn? Máy tính của chúng tôi đã mở rộng cửa cho hắn suốt
một tuần. Làm thế nào để chứng minh rằng hắn chưa quấy phá cơ sở dữ
liệu?
Làm thế nào để chúng tôi có thể tin cậy các chương trình và dữ liệu của
mình một lần nữa?