chúng ta bắt đầu từ đây.
Chúng ta có thể thấy hàm
main
bắt đầu bằng việc khai báo biến z kiểu
int
.
Ngay sau đó là một lời gọi tới hàm
addition
. Nếu để ý chúng ta sẽ thấy sự
tương tự giữa cấu trúc của lời gọi hàm với khai báo của hàm:
Các tham số có vai trò thật rõ ràng. Bên trong hàm
main
chúng ta gọi hàm
addition
và truyền hai giá trị:
5
và
3
tương ứng với hai tham số
int a
và
int
b
được khai báo cho hàm
addition
.
Vào thời điểm hàm được gọi từ
main
, quyền điều khiển được chuyển sang cho
hàm
addition
. Giá trị của c hai tham số (
5
và
3
) được copy sang hai biến cục
bộ
int a
và
int b
bên trong hàm.
Dòng lệnh sau:
return (r);
kết thúc hàm
addition
, và trả lại quyền điều khiển cho hàm nào đã gọi nó
(
main
) và tiếp tục chương trình ở cái điểm mà nó bị ngắt bởi lời gọi đến
addition
. Nhưng thêm vào đó, giá trị được dùng với lệnh
return
(
r
) chính là
giá trị được trả về của hàm.\
Giá trị trả về bởi một hàm chính là giá trị của hàm khi nó được tính toán. Vì vậy
biến
z
sẽ có có giá trị được trả về bởi
addition (5, 3)
, đó là
8
.
Phạm vi hoạt động của các biến [nhắc lại]
Bạn cần nhớ rằng phạm vi hoạt động của các biến khai báo trong một hàm hay
bất kì một khối lệnh nào khác chỉ là hàm đó hay khối lệnh đó và không thể sử
dụng bên ngoài chúng. Ví dụ, trong chương trình ví dụ trên, bạn không thể sử
dụng trực tiếp các biến
a
,
b
hay
r
trong hàm
main
vì chúng là các biến cục bộ