tính chất cách mạng và vô thần, đồng thời tham gia "phái Hêghen trẻ"
(*)
.
Tháng 4-1841, Mác nhận bằng Tiến sĩ triết học. Trong luận án tiến sĩ với đề tài Sự
khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit và triết học tự nhiên của Êpiquya, tuy
Mác vẫn là người theo triết học duy tâm của Hêghen, song ông coi nhiệm vụ của triết
học là phải phục vụ cuộc đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng con người, phá bỏ hiện thực
lỗi thời theo tinh thần cách mạng của phép biện chứng. "Giống như Prômêtê - Mác viết
trong luận án, - sau khi đã đánh cắp lửa từ trên trời xuống, đã bắt đầu xây dựng nhà cửa
và cư trú trên trái đất, triết học cũng vậy, sau khi bao quát được toàn bộ thế giới, nó nổi
dậy chống lại thế giới các hiện tượng". Luận án cũng cho thấy tư tưởng vô thần của Mác
khi ông đòi hỏi triết học phải phục vụ cuộc sống chứ quyết không làm tôi tớ cho thần
học.
Như vậy, lúc này, trong tư tưởng Mác có sự mâu thuẫn về thế giới quan giữa chủ
nghĩa duy tâm triết học với tinh thần dân chủ cách mạng và vô thần. Mâu thuẫn được
giải quyết trong quá trình kết hợp chặt chẽ hoạt động lý luận với thực tiễn đấu tranh
chống chế độ chuyên chế của nhà nước phong kiến.
Phriđơrich Ăngghen (28-11-1820 – 5-8-1895) sinh ra trong gia đình chủ xưởng dệt
ở thành phố Bacmen. Khi còn là học sinh trung học, Ăngghen đã căm ghét sự chuyên chế
và độc đoán của bọn quan lại, ông đã kiên trì tự học, nuôi ý chí làm khoa học và hoạt
động cải biến xã hội bằng cách mạng. Ăngghen say mê nghiên cứu triết học, đặc biệt là
các tác phẩm của Hêghen. Vì vậy, năm 1841, trong khi làm nghĩa vụ quân sự ở Beclin, ông
thường xuyên dự thính các bài giảng về triết học tại trường Đại học Tổng hợp Béclin và tham
gia vào nhóm Hêghen trẻ. Cuối năm đó, Ăngghen đọc Bản chất đạo Cơ đốc; tác phẩm
nổi tiếng này của Phoiơbắc đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến thế giới quan của ông.
Tinh thần dân chủ cách mạng và vô thần của Ăngghen thể hiện rõ ngay trong bài
báo đầu tiên của mình Những bức thư từ Vesphali, công bố tháng 3 năm 1839. Trong đó
ông đã phê phán những chủ xưởng sùng đạo, đồng thời thể hiện rõ thiện cảm với công
nhân. Những tác phẩm của Ăngghen thời kỳ 1841 - 1842 nhằm phê phán các quan
điểm phản động của giáo sư Sêling, một nhà triết học Đức, cho thấy, tuy vẫn đứng trên
lập trường duy tâm của triết học Hêghen, nhưng ông đã thấy có sự mâu thuẫn giữa cách
mạng và bảo thủ trong triết học ấy, đồng thời thấy tính triệt để hơn của triết học Phoiơbắc
so với Hêghen. Song, chỉ thời gian gần hai năm sống ở Mansetxtơ (Anh) từ mùa Thu
1842, việc nghiên cứu đời sống kinh tế và sự phát triển chính trị của nước Anh, nhất là
việc trực tiếp tham gia phong trào công nhân, mới dẫn đến bước chuyển biến căn bản
trong thế giới quan và lập trường chính trị của ông.
Như vậy, cho đến giữa năm 1842, C.Mác và Ph.Ăngghen vẫn là người duy tâm về triết
học và là những nhà dân chủ cách mạng về quan điểm chính trị. Bước ngoặt trong cuộc
(*) Phái Hêghen trẻ, một môn phái triết học gồm những người có tư tưởng cấp tiến vô sản, sử dụng phương pháp biện
chứng của triết học Hêghen để phê phán thần học và chế độ phong kiến Đức. Nó đóng vai trò tích cực trong việc chuẩn bị tư
tưởng cho cuộc Cách mạng tư sản Đức 1848.
52