thống nhất ba mặt sau:
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này
mang tính chất hai chiều, có định hướng, có chọn lọc các thông tin cần thiết.
Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực
chất, đây là quá trình "sáng tạo lại" hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã hóa các đối
tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện thực
hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến
các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai
đoạn này, con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào
hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình.
Tính sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật của sự phản
ánh mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sáng tạo và phản ánh là hai
mặt thuộc bản chất ý thức. ý thức là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hội của con
người tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động, sáng tạo của bộ óc.
ý thức là một hiện tượng xã hội. Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động
thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ các quy luật sinh học mà chủ yếu là của quy luật xã
hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của con người quy
định. ý thức mang bản chất xã hội.
3. Kết cấu của ý thức
ý thức là một hiện tượng tâm lý - xã hội có kết cấu rất phức tạp. Có nhiều cách
tiếp cận để nghiên cứu về kết cấu của ý thức song ở đây chúng ta chỉ nghiên cứu theo
các yếu tố hợp thành và theo chiều sâu của nội tâm.
a) Theo các yếu tố hợp thành
Theo các yếu tố hợp thành, ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình
cảm, niềm tin, lý trí, ý chí... trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.
Tri thức là kết quả quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái
hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng
dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác. Tri thức có nhiều loại khác
nhau như tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người. Tri thức có nhiều cấp độ khác
nhau như: Tri thức thông thường được hình thành do hoạt động hàng ngày của mỗi cá
nhân, mang tính chất cảm tính trực tiếp, bề ngoài và rời rạc. Tri thức khoa học phản ánh
trình độ của con người đi sâu nhận thức thế giới hiện thực. Ngày nay, vai trò động lực của
tri thức đối với sự phát triển kinh tế xã hội trở nên rõ ràng, nổi bật. Loài người đang
bước vào nền kinh tế tri thức - là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng
tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế tri
thức, đa số các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào thành tựu mới nhất của khoa học
89