16
LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU SINH TRẮC HỌC
DẤU VÂN TAY
Nghiên cứu về ngành Sinh trắc học dấu vân tay đã có tuổi đời hơn 200
năm. Kết quả nghiên cứu này đã được áp dụng trong các ngành nhân
học, di truyền học, y học và thống kê giúp giải mã khả năng tiềm ẩn
của con người.
Năm 1823, Joannes Evangelista Purkinji tìm thấy các mô hình và hình
dạng của ngón tay.
Năm 1880, Henry Faulds và W. J Herschel, trong
một công trình công bố tên là “Nature”, đã đề xuất sử
dụng vân tay như là phương thức độc đáo để xác định
bản chất của con người.
Tiến sĩ Henry Faulds đưa ra lý luận số lượng vân tay
TRC (Total Ridge Count) có thể dự đoán tương đối
chính xác mức độ phụ thuộc của chúng vào gen di
truyền của con người được thừa kế, trong đó có liên
quan đến tiềm năng và trí tuệ của con người.
Năm 1892, ông Francis Galton đã chỉ ra rằng: vân tay
của những cặp song sinh, anh em và di truyền cùng dòng máu thì có sự
tương đồng, chính điều này đã mở ra ngành nhân học.
Năm 1902, Harris Hawthorne Wilder đã thiết lập hệ thống cơ bản của
môn hình thái học, di truyền học và nghiên cứu trên chủng loại lòng
bàn tay và vân tay.
Năm 1926, Tiến sĩ Harold Cummins đề xuất
“Dermatoglyphics” (Sinh trắc học vân tay) như là một
thuật ngữ cho chuyên ngành nghiên cứu dấu vân tay tại
Hiệp hội hình thái học của Mỹ. Từ đó, Dermatoglyphics
chính thức trở thành một ngành nghiên cứu riêng biệt.
Ông đưa ra lý luận chỉ số cường độ vân tay PI, giá trị
RC, số lượng tam giác điểm, hình dạng vân tay, vị trí
hình dạng vân tay ở những