18
Năm 1958, Noel Jaquin đã nghiên cứu và phát hiện ra mỗi vân tay sẽ
tương ứng với một chủng loại tính cách.
Năm 1981, Giáo sư Roger W. Sperry và đồng sự đã
được vinh danh giải thưởng Nobel trong ngành Y sinh
học vì những nghiên cứu về chức năng của não trái và
não phải cũng như lý thuyết toàn não. Từ đây những
nghiên cứu về não bộ không ngừng phát triển. Những
kết quả này đã được nhiều nhà khoa học sử dụng triệt
để và áp dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau.
Năm 1985, Tiến sĩ Chen Yi Mou – Đại học Havard
nghiên cứu Sinh trắc vân tay dựa trên Thuyết Đa
Thông Minh của Tiến sĩ Howard Gardner. Đây là lần
đầu tiên áp dụng Sinh trắc dấu vân tay trong lĩnh vực
giáo dục và chức năng của não liên quan đến dấu vân
tay.
Năm 1994, Giáo sƣ Lin Jui Pin – nhà tiên phong,
chuyên gia hàng đầu về Kỹ thuật Sinh trắc học dấu vân
tay Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã mang khoa
học Sinh trắc dấu vân tay vào Đài Loan. Sau đó, nó đã
được áp dụng vào việc học tập và nghiên cứu; và tạo ra
tiếng vang rất lớn tại Đài Loan vào lúc bấy giờ.
Giáo sư Lin dành ra hơn 20 năm để phân tích và cải
thiện kỹ thuật Sinh trắc Dấu vân tay và đã đạt được
những thành tựu vượt bậc như ngày hôm nay.
Năm 2004, công ty Well Gene Sciences đã bắt đầu sử dụng kỹ thuật
cao để lấy dấu vân tay. Với một cơ sở dữ liệu khổng lồ lên đến hàng
triệu cùng với kỹ thuật phân tích thống kê, công ty này đã đưa ứng
dụng sinh trắc vân tay lên một tầm cao mới.
Cùng thời điểm này, tại Châu Á, mức độ quan tâm đặc biệt về khả năng
nghiên cứu và ứng dụng của ngành sinh trắc vân tay đã lan nhanh mạnh
mẽ. Trung tâm IBMBS (Trung tâm Sinh trắc học Xã hội và Hành vi
ứng xử quốc tế) đã xuất bản hơn 7000 luận án về Sinh trắc vân tay.
Năm 2011, Ông Peter Teoh – người có 22 năm trong lĩnh vực giáo dục
và đam mê nghiên cứu về tiềm năng con người, cùng với giáo sư Lin đã
nghiên cứu phần mềm đa ngôn ngữ cho ngành Dermatoglyphics. Ông
Peter Teoh được sự ủy nhiệm và tin tưởng của Giáo sư Lin, đã đảm
nhận một sứ mệnh đầy thách thức nhưng cũng vô cùng hấp dẫn là mang