giả Việt Nam đã viết về ông: “Nếu như thiên nhiên có thể cảm thấy sự biết
ơn đối với con người vì con người đã đi sâu vào đời sống bí ẩn của thiên
nhiên và ca ngợi vẻ đẹp của nó, thì trước hết sự biết ơn đó phải dành cho
Mikhail Prisvin”.
Về M. Prisvin, xin đọc bài của K. Paustovski ở cuối sách, ở đây chỉ ghi lại
mấy nét tiểu sử của nhà văn.
Mikhail Mikhailovitr Prisvin (Михаил Михайлович Пришвин) sinh ngày
4 tháng 2 năm 1873 tại trang ấp Khrusevo (Хрущево) gần thành phố Eles
(Елец), tỉnh Orlovskaia (Орловская губерния), miền Trung nước Nga, trong
một gia đình ban đầu khá sung túc nhờ thừa kế tài sản của ông nội giàu có
nhưng sau bị phá sản vì người bố ham mê săn bắn, cờ bạc. Thuở nhỏ ông
học ở trường trung học Eles nhưng bị đuổi học vì “xung đột với thầy giáo”
– ông thầy này về sau cũng là một nhà văn khá nổi tiếng và trở thành bạn
đồng chí hướng của Prisvin. Sau khi học qua các trường Trung học Tiumen,
Cao đẳng Bách khoa Riga, năm 1902, ông tốt nghiệp kĩ sư Nông học Đại
học Tổng hợp Leipzig (Đức), làm việc ở nhiều vùng nông thôn Nga, xuất
bản một số cuốn sách và bài viết về nông nghiệp. Từ năm 1905, ông bắt đầu
bước vào nghề báo chí, năm 1906 in truyện ngắn đầu tay Sasok (Сашок), từ
đó M. Prisvin lần lượt cho ra đời những cuốn sách tạo nên tên tuổi của ông
trong làng văn nước Nga như Ở xứ sở những con chim không sợ hãi (В
краю непуганых птиц, 1907), Bên những bức tường của thành phố vô hình
(У стен града невидимого, 1909), Adam và Eva (Адам и Ева, 1909), Aral
đen (Черный Арал, 1910)... Năm 1912 - 1914, xuất bản bộ Tuyển tập tác
phẩm đầu tiên của M. Prisvin gồm ba tập.
Trong thời gian Thế chiến thứ nhất, M. Prisvin làm phóng viên chiến
tranh, sau đó làm nghề dạy học ở Smolensina (Смоленщина). Năm 1925,
ông viết Những nguồn mạch Berendei (Родники Берендея) mà năm 1935,
được bổ sung in lại với tên mới Lịch thiên nhiên (Календарь природы). Từ
năm 1927 đến 1930, nhà văn xuất bản bộ mới Tuyển tập tác phẩm gồm bảy
tập với lời giới thiệu của M. Gorki. 1933 là năm ra đời một trong những tác
phẩm hay nhất của Prisvin Nhân sâm (Женьшень). Năm 1940, ông viết