A. SỬ LƯỢC TỈNH GÒ-CÔNG
(Căn cứ vào Bộ Hoàng-Việt Địa-dư chí đời Minh-Mạng thứ 14 năm
1934 và Cours d’Histoire Annamite của Trương-Vĩnh-Ký, in năm 1877).
Ý NGHĨA VÀ ĐIỂN-TÍCH DANH HIỆU GÒ-CÔNG
Từ lâu lãnh thổ Gò-công đã được ghi vào bộ Đại-Nam Quốc-Sử do cụ
Phan-Thanh-Giản bình luận, là một xứ « Địa-Linh Nhơn-Kiệt », căn cứ vào
địa lý và nhân văn.
Có hai thuyết định nghĩa danh hiệu Gò-công
Thuyết thứ nhứt : Gò-công nguyên xưa kia là đất đai của Cao-miên,
khi chúa Hiền (Nguyễn-Phúc-Tần) định cuộc di dân Nam tiến, thì người
Việt-Nam mới tràn vào định cư. Lúc bấy giờ Gò-công còn là nơi rừng rậm,
chưa có người ở. Đặc biệt tại xứ này có một cái gò cao, nhiều giống chim
công ở nên gọi là Gò-công từ đó. Trong sử có ghi chép một đoạn về danh từ
các tỉnh như sau : Khi vua Minh-Mạng ra lệnh cho các quan địa-phương đổi
tên nôm na các tỉnh thành chữ Nho cho tao nhã thì « Gò-công » biến thành
« Khổng-tước-Nguyên », Đồng-nai đổi ra « Lộc-dã », Bến-tre là Trúc-
giang, Sóc-trăng được gọi là « Nguyệt-giang » (Sông-trăng), v.v...
Thuyết thứ hai cho rằng : Lần đầu tiên tại xứ này có một người đàn bà
tên Thị-Công đến lập quán bán thức ăn cho dân khai thác đồn điền. Lần hồi,
vì thấy Gò-công là nơi dễ sinh sống nên dân chúng các nơi tụ họp về khai
hoang ruộng rẫy, lập thành làng mạc. Số người ở càng ngày càng đông, do
đó dân địa-phương thường quen gọi là quán Bà Công, Gò Bà Công, đến sau
lâu ngày trở thành một địa danh vắn tắt là Gò-công tồn tại đến hôm nay.
GÒ-CÔNG TRƯỚC THỜI CẬN ĐẠI