“Port Elizabeth” và “Durban”. Amin theo dõi chiến sự qua ống
nhòm từ trên hàng hiên biệt thự mang tên Command Post, giận
dữ vì sự chậm chạp của tiểu đoàn Jinja đáng lẽ đã phải chiếm
được “Cape Town” từ lâu. Vậy là hắn lên xe, đầy kích động, đi từ
điểm chỉ huy này đến điểm chỉ huy khác, mắng nhiếc đám sĩ
quan, khích động tinh thần chiến đấu của các tiểu đội. Các trái
đạn pháo rơi xuống Hồ Victoria, làm bắn lên những cột nước và
khiến cho dân chài hoảng sợ.
Hắn là con người có sinh lực bất tận, luôn luôn sôi nổi, luôn
luôn hoạt động. Nếu thỉnh thoảng có triệu tập phiên họp chính
phủ với tư cách tổng thống, thì hắn cũng chỉ có thể ngồi ở đó
không lâu. Nhanh chóng cảm thấy chán, hắn đứng dậy khỏi ghế
và đi ra ngoài. Hắn có những suy nghĩ bốc đồng, nói năng lộn
xộn, không hết câu. Hắn đọc tiếng Anh chật vật, biết tiếng
Swahili tàm tạm. Hắn làm chủ tốt thổ ngữ Kakwa của mình,
nhưng không mấy người biết thổ ngữ này. Chính các thiếu sót
ấy khiến hắn được yêu thích trong giới bayaye: hắn giống như
họ, máu giống máu, xương giống xương.
Amin không thân thiết với ai hết, cũng không cho phép ai
biết hắn lâu và sâu. Hắn sợ mối quan hệ như thế sẽ giúp người
khác tổ chức âm mưu chống lại hay lật đổ hắn. Hắn thường thay
chỉ huy của hai đơn vị cảnh sát ngầm mà hắn lập ra để khủng bố
đất nước: Public Safety Unit (Đơn vị An ninh Công cộng) và
State Research Bureau (Cơ quan Nghiên cứu Nhà nước). Trong
đơn vị thứ hai này có bayaye của các sắc dân Sudan có quan hệ
với nhau: Kakwa, Lugabra, Madi, và người Nubian bà con của
họ. SRB gieo rắc kinh hoàng ở Uganda. Sức mạnh của nó là ở chỗ
mỗi thành viên đều có thể liên lạc trực tiếp với Amin.
Một lần tôi đi loanh quanh trong khu chợ ở Kampala. Vắng
tanh, nhiều sạp hàng bị sập, nằm chỏng chơ. Amin đã vắt kiệt và