Thổ-Nhĩ-Kỳ. Dù bị bách hại đủ điều, Ngài cứ thản nhiên. Trong cơn bắt bớ
nầy, Ngài viết một cuốn sách mỏng mà trứ danh. Đó là cuốn Ẩn-Ngữ.
3.- Công khai tuyên bố lập đạo:
Sau 19 năm Đức Bab tuyên bố lập đạo thì từ 21-4 đến 3-5 năm 1864,
Ngài tuyên bố rằng Ngài là Đấng mà Đức Bab tiên báo, được các Tiên-tri
hứa hẹn là Đấng Thượng-Đế lựa chọn. Nơi Ngài tuyên bố tâm giáo đó là
vườn của Ridvan.
Sau đó Ngài cùng 12 thân thuộc và 72 đệ tử đến cư trú tại
Constantinople rồi sang Adrinople. Nơi nào cũng sống vô cùng khổ cực mà
tín đồ thì đến như biển người. Nhưng như đã nói trên tại Adrinople, Ngài bị
người em một cha khác mẹ là Yahyá tổ chức phá rối nên chính quyền địa
phương trục xuất cả hai. Môn đồ tín hữu của Ngài cùng Ngài bị đưa qua
Palestine còn của Yahyá thì qua Cyprus.
Đến Palestine ở tại Akká, Ngài bắt đầu gửi những bức thư công khai cho
các Hoàng-đế Âu-Châu, cho Giáo-hoàng La-Mã, cho chính phủ Ba-Tư và
Hoa-Kỳ. Trong các thư ấy Ngài trình bày giáo lý của Ngài, thiên chức của
Ngài nhứt là Ngài biện hộ cho các môn đệ, tín hữu của Ngài bị giam cầm,
tra tấn, hãm hại oan ức.
Có một đệ tử của Ngài, còn trẻ tuổi, lòng đạo nhiệt thành tên là Badi vì
mang một bức thư của Ngài mà bị bắt hành khổ bằng cách áp gạch nướng
đỏ vào da thịt cho sôi lên.
Cuộc đời Baha'u'llah trôi nổi từ Akká đến Bahji. Ở đâu Ngài cũng tiếp
tục cổ võ sự tôn vinh Thượng-Đế. Các tín đồ gọi Ngài là Đấng-Phúc-Toàn.
Ngài cùng gia đình sống giản dị, bình thản. Ngài càng tỏ ra yên phận vui
tươi trong những ngày cuối cùng của kiếp sống. Khi thọ 75 tuổi, Ngài qua
đời ngày 29-5-1892 sau cơn bệnh sốt rét. Trước khi ly trần, Ngài để lại một
Chúc-thư và một Ước-kinh. Chín ngày sau khi an táng thân phụ, Đức