d) Từ bé, Ngài đã có khuynh hướng nặng về đạo giáo, tu hành. Lớn lên
mỗi tháng Ngài ăn chay hai lần. Những bực thiêng liêng mà Ngài thờ kính
là Thánh Thần Tiên Phật.
Từ năm 1902, Ngài đã bắt đầu cầu cơ. Theo Ngài thì lần cầu cơ đầu tiên
nầy tại Thủ-Dầu-Một, Ngài được Tiên ông khuyên lo tu hành. Trong nhà,
Ngài luôn thờ Phật Quan-Âm và Đức Quan Thánh.
Năm 1920, khi cầu cơ chung cùng các ông Nguyễn-Văn-Vân, ông Bộ
Thọ, ông Trần-Phong-Sắc, Ngài được Đức Cao-Đài Tiên Ông giáng cơ cho
biết Cao-Đài là Thượng-Đế.
Ngày 8-2-1921, cầu cơ Ngài cho biết là Đức Cao-Đài Tiên Ông xưng hô
với Ngài bằng Thầy và đệ tử và buộc Ngài ăn chay trường ba năm, tiếp tục
lo tu hành chuẩn bị khai đạo. Theo Ngài, cũng năm 1921, Đức Cao-Đài
hiện ra hai lần cùng Ngài dưới hình thức Độc-Nhãn, ngụ ý khuyên Ngài thờ
Thiên-Nhãn.
Lại cũng năm 1921, Đức Cao-Đài giáng cơ cho Ngài xưng danh là Cao-
Đài Tiên Ông Đại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát và từ đó, Ngài chính thức làm đệ tử
của Đức Cao-Đài.
4.- Trên đường sáng lập đạo:
Năm 1924, Đức Ngô Giáo-Tổ gọi là năm thứ nhất Cao-Đài đại đạo.
Cuối năm 1925, Đức Cao-Đài mới khuyên Ngài chính thức truyền đạo. Lúc
bấy giờ, Đức Cao-Đài còn chọn 12 đệ tử nữa mà Đức Ngô-Văn-Chiêu được
coi là anh Cả.
Mười hai đệ tử ấy là quý ông:
1. Vương Quan Kỳ
2. Nguyễn Văn Hoài