do một ông già nông thôn mang đến nửa bán nửa cho… Âu đó cũng vui
tuổi già, sau những ngày dài, chập tối, ngõ vắng lên đèn, một mình, bước
thấp bước cao, lê đầu gậy, dạo một quãng cho đỡ đau xương cốt”. Kể từ
đó, ông sống những ngày tàn không tác phẩm. Nhưng từ năm 1990 cho đến
khi qua đời, 1997 – như chính ông thổ lộ - ông cũng “cố ngồi, cố viết, tay
quá run, chữ không thật nét, coi như làm cái việc rửa bút cùn, lau kiếm gỉ,
viết với tâm tình băng giá của một ông già. Viết nhiều, viết ít, viết gì đi nữa,
chỉ là những dòng chữ biệt li…”. Những bài ký của ông viết rải rác trong
giai đoạn này, gần đây tôi đã tuyển lại thành một tác phẩm dưới nhan đề Hà
Nội cũ nằm đây - sức bút của ông vẫn dồi dào và trí tuệ vẫn mẫn tiệp. Ông
hay suy tư, những người hay suy nghĩ sâu xa thì lại càng hay buồn. Nỗi
buồn, nỗi đau lớn nhất của cuộc đời ông, với tư cách một nhà văn, là không
được viết và bị quên lãng quá lâu. Nhiều lúc, ông giật mình ngơ ngác vì
thấy mình vẫn tồn tại khi các bạn ông như Vũ Trọng Phụng, Vũ Đình Long,
Lan Khai, Lê Văn Trương, Tam Lang, Thuỵ Chương, Lê Bái Leiba, Trần
Huyền Trân, Thâm Tâm, Nguyễn Bính đã ra đi từ lâu – như ông viết trong
bài ký Người phun kiếm: “Các ông bạn cầm bút của tôi, cùng thời với tôi,
tất cả đều đã ra khỏi cái quá khứ văn bút đau thương kệch cỡm này”.
Từ năm 1989, tôi đã vào Thư viên Quốc gia (Hà Nội) để sưu tầm các
truyện ngắn của cha tôi đăng trên tuần báo Tiểu thuyết thứ Bảy. Ngay năm
đó, Nhà xuất bản Văn học đã ấn hành tập truỵện của ông, nhan đề Cô gái
làng Sơn Hạ, cuốn sách mỏng manh, chỉ ngót 200 trang, in rất xấu, tôi sợ
cha tôi buồn, vậy mà ông vui lắm.
Năm 2001, Nhà xuất bản Hội nhà văn lại ấn hành tiếp Ngọc Giao, truyện
và ký, do tôi tuyển. Cuốn sách này dày dặn và tuyển chọn có hệ thống.
Nhưng ông đã qua đời từ 1997, không được gặp lại đứa con tinh thần của
mình.
Cuối năm 2009, nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình, tử tế của Thư viện Khoa học
Tổng hợp (thành phố Hồ Chí Minh) đối với em rể tôi, tôi đã có trong tay