Tôi đã leo lên cái thang lộ thiên mà những bậc lát xi măng vỡ nát nhiều
vì đầu đanh giầy lính tẩy. Bước lên sàn gác, tôi phải sững sờ. Trước mắt tôi:
đúng bảy chị nhà quê vừa nằm vừa ngồi ngổn ngang trên hai lá chiếu rải
liền. Mỗi người ôm một đứa con. Chị chúa me mời tôi ngồi xuống chiếc
ghế sa lông thổ phỉ, mặt da bọc đã nát bét như da mặt một me già như chị.
Và nhe mấy chiếc răng nhuộm cốt trầu, chị nói:
- Đĩ dại, ai bảo thấy nó vào không chạy, để nó tóm được rồi thì ễnh mẹ
nó ra. Chửa thì đẻ, xấu chó gì!
Nghe chị chúa me cong cớn nói, tôi sực nhớ đến những lời giáo huấn rất
hùng hồn của một bà đốc trường nữ học hồi thịnh Sa-Tiền đã ban cho mấy
nữ sinh, mà bây giờ, thầy đã lên rừng đền tội ác, mà trò thì một số ít đã rất
thạo cái nghề vành ngoài bảy chữ...
Chị chúa me trỏ một ả gái non ngồi quay mặt vào tường kéo áo lau nước
mắt ôm cái bọc hài nhi mà tôi đã trông rõ cái đầu nhọn hoắt, mấy sợi tóc
quăn lơ thơ trên màu da đen trũi. Thằng bé ưỡn người khóc, mở mắt trắng
dã nhìn lên trần nhà như lên cơn sài uốn ván.
- Con bé này mới mười bảy tuổi. Chui xuống bè tre ngâm dưới ao sen
rồi, nó chưa đi hẳn đã chui lên tắm rửa cầu ao. Nó lôi lên. Thế là đẻ ra con
chuột nhắt.
Chị đứng lên vạch cái tã phủ kín một cục than nữa đang ngủ ở chân
tường:
- Cha mẹ đẻ cái thằng nhãi này, mặt mũi trông mà gớm! Về sau tha hồ
đẹp giai như bố!
Tôi cúi xuống nhìn để tưởng đến bộ mặt Cáp Tô Văn của rạp Quảng Lạc
ngày xưa. Người mẹ đang ngồi vá mớ giẻ không còn hình là mảnh áo quần,
càng cúi đầu thấp xuống. Thằng bé cựa quạy, người mẹ ẵm con lên vạch vú
teo cho bú, rồi quay vào tường khẽ nựng “Dào ôi, bố mày!”.