Hoàng-kỳ-tặc: là giặc cờ vàng; Bắc-kinh là nói Bắc-Việt.
Lại thêm thủy hạn thường ngày: Mấy năm ở Bắc-Việt bị đê vỡ nước-lụt
và hạn hán luôn dân rất cực-khổ.
lường: tiếng hờn, người đàng trong đọc là hờng, cho nên câu dưới mới hạ
vần lường .
Sai quan đi sứ trăm đường tổn hao: Bấy giờ Triều-đình sai Phan Thanh
Giản và Lâm Duy-Tiếp vào Gia-định giảng-hòa.
Hãy còn ba tỉnh lẻn vào cướp không: Hòa-ước ký năm Nhâm-tuất (1862)
Triều-đình ở Huế phải nhường ba tỉnh Biên-hòa, Gia-định và Định-tường
và phải trả 4 triệu bạc tiền binh phí. Đến năm Đinh-mão (1867) là 5 năm
sau, nước Pháp lấy nốt ba tỉnh Vĩnh-long, An-giang và Hà-tiên.
ngoan: ngoan là ngoan-ngạnh. Đây nói các bọn giặc ở Bắc-Việt.
Lấy rồi việc: nghĩa là làm qua loa cho xong việc. Thủa ấy quan nhà Thanh
có cho một toán quân sang Việt-năm đánh một bọn giặc Tàu.
Sa cơ trí dũng tướng rày bị thương: Đây nói Nguyễn Tri-Phương, khi
Pháp đánh thành Hà-nội lần thứ nhất, ông bị thương, không chịu để buộc
thuốc mà chết.