Hồ Cẩm Đào không ngờ mình lại trở thành đại sứ miền
biên cương Tây Tạng vào thời điểm đặc biệt như vậy.
Từ lâu nay, Tây Tạng là một nơi khiến cho Trung ương
đau đầu. Từ sau năm 1959 La-sa bùng nổ cuộc phản loạn vũ
trang toàn diện và Đạt-lai Lạt-ma chạy ra nước ngoài, cao
nguyên Tuyết Vực Tây Tạng đã trở thành nơi tiền tiêu
nhất mà Trung Quốc triển khai cuộc đấu tranh chống
chia rẽ.
Sau khi Đạt-lai Lạt-ma chạy ra nước ngoài, tháng 6 năm
1959 đã đưa ra tuyên bố tại Mút-su-ri của ấn Độ rằng,
“Trên thực tế Tây Tạng từng từ lâu độc lập”, và vào đầu
những năm 60 đã thành lập “chính phủ lưu vong Tây Tạng”,
xây dựng lại vũ trang phản loạn, xúi giục gây nhiễu, không
ngừng gây “phiền phức” cho chính phủ Trung Quốc.
Tây Tạng chiếm 12,8% tổng diện tích đất đai của Trung
Quốc, phía bắc giáp với Tân Cương và Thanh Hải, phía
đông, đông nam nối liền với tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam,
phía nam và phía tây có chung đường biên giới với Miến
Điện, ấn Độ, Bu-tan, Xích-kim và Nê-pan, hình thành một
đường biên giới tổng cộng dài gần 4000 kilômét, vị trí
chiến lược hết sức quan trọng. Có thể nói, ổn định của Tây
Tạng liên quan đến sự ổn định và an ninh của miền tây
Trung Quốc, hay nói cách khác dứt dây động rừng.
Trong tình hình đó, Tây Tạng đã trở thành một quân cờ
mà chính phủ Trung Quốc không thể coi nhẹ trên cả một
bàn cờ. Nếu như đi tốt bàn cờ này, thì quân cờ đó sẽ đi như
thế nào, Trung ương hết sức đau đầu. Từ năm 1965 thành
lập khu tự trị Tây Tạng cho đến năm 1988 Hồ Cẩm Đào