Đảng cộng sản Đông Dương vừa được ra tù, (theo báo cáo của Pháp, chỉ
riêng ở Vinh đã có hơn 2.000 người trong tù), nhưng giới lãnh đạo đảng lại
nghi ngờ lòng trung thành của những cựu tù nhân này. Theo một báo cáo
của Tỉnh uỷ Nghệ An, “trong một trăm đảng viên cũ, chỉ được một người
trung thành với học thuyết của Đảng”. Giữa năm 1934, ở Trung Kỳ thành
lập ba Ban Chấp hành miền, mỗi ban chấp hành phụ trách từ bốn đến bảy
tỉnh. Ở Bắc Kỳ, hoạt động Đảng cộng sản Đông Dương hầu như không tồn
tại cho đến tận 1934, khi những chi bộ đảng bắt đầu xuất hiện ở Việt Bắc,
vùng rừng núi phía bắc đồng bằng sông Hồng. Sau đó, từ căn cứ cơ sở ở
Trung Hoa, Lê Hồng Phong có điều kiện tái lập Ban Chấp hành Xứ uỷ Bắc
Kỳ.
Trong lúc ấy, một nhóm Đảng viên ở Xiêm phụ trách giao liên ở cao
nguyên Khorat - kế thừa hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở vùng này cuối
thập niên 1920 - thành lập Ban Chấp hành Lâm Thời để chỉ đạo phong trào
và lập một trường huấn luyện đào tạo những hội viên mới hoạt động ở Việt
Nam. Sau đó, chính họ tạo ra mối liên lạc trực tiếp giữa hoạt động đảng ở
Nam Kỳ và Trung Kỳ với thế giới. Nhiều ban chấp hành tương tự cũng
được thành lập ở Lào và Campuchia.
Giới lãnh đạo đảng đang phải khắc phục những hậu quả thảm khốc của
cuộc nổi dậy Nghệ - Tĩnh đồng thời có nhiệm vụ quan trọng nhất tìm ra
chiến lược mới. Giữa năm 1932, Lê Hồng Phong cùng các cán bộ ưu tú
sống ở nam Trung Hoa đã dự thảo chương trình hành động mới của đảng,
in li-tô (lithograph) lưu hành trong nội bộ đảng viên trung thành ở Đông
Dương. Để giữ đúng tinh thần ở Moscow, giọng văn của tài liệu mang tính
giáo phái và tả khuynh, chú trọng cách mạng chống phong kiến, đấu tranh
chống đế quốc và nhấn mạnh sự nghi ngờ vai trò các đảng phái quốc gia
dân tộc trong cách mạng Việt Nam.
Những quan điểm công khai trong tài liệu đó phản ánh đường lối của họ.
Một bài báo trên tạp chí Bolsevich, cơ quan ngôn luận chính thức của Ban
Chấp hành Hải ngoại mạnh mẽ phê bình thái độ tiểu tư sản, chẳng hạn như
có ý kiến cho rằng cách mạng dân tộc phải xảy ra trước cách mạng xã hội